Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2007

Nguyễn Văn Tài - Kiện tướng cầu lông người khuyết tật Vĩnh Long


Tháng 10-2002 vừa qua, tại nhà thi đấu Busan (Hàn Quốc), vận động viên khuyết tật Nguyễn Văn Tài đoạt HCĐ đơn nam. Đây là lần thứ ba Nguyễn Văn Tài bước lên bục vinh quang nhận huy chương giải cầu lông người khuyết tật Đông Nam Á. Tháng 1-1999, giải Cầu lông Châu Á tổ chức tại Thái Lan, anh đoạt HCĐ đơn nam. Riêng tháng 5-2000, anh đoạt 3 huy chương: HCV đồng đội, HCB đơn nam, HCB đôi nam.


Năm 2002 cũng là năm thành công của anh trên đường sự nghiệp thể thao người khuyết tật: Nguyễn Văn Tài là một trong năm VĐV khuyết tật xuất sắc được bầu chọn là VĐV tiêu biểu năm 2002.

Những thành tích trên nằm trong chuỗi thành tích 7 năm liền của Nguyễn Văn Tài, mà trước đó anh đã đoạt: Tháng 11-1996, HCB đơn nam + HCB đôi nam TDTT Người khuyết tật toàn quốc tại Hà Nội. Tháng 7-1997, HCB đôi nam Đại hội TDTT Người khuyết tật tại Quảng Trị lần thứ nhất.

Tháng 4-1998, HCV đôi nam tại Hiệp hội TDTT Người khuyết tật Việt Nam tổ chức tại TP HCM.

Tháng 7-1999, HCV đơn nam + HCĐ đôi nam Đại hội TDTT Người khuyết tật toàn quốc tổ chức tại Đà Nẵng. Tháng 8-2001, HCV đơn nam + HCV đôi nam Đại hội TDTT Người khuyết tật toàn quốc tổ chức tại TP HCM. Tháng 12-2001, HCV đơn nam + HCV đôi nam Đại hội Campaign Người khuyết tật tổ chức tại Hà Nội.

Ngoài ra, Nguyễn Văn Tài còn được Quỹ Hỗ trợ tài năng và Ban chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tặng bằng khen là VĐV tiêu biểu năm 2002.

Nhìn vào cánh tay trái không nguyên vẹn, anh tâm sự: Tháng 11 năm 1984, tôi đã gặp tai nạn lao động. Khi nhập viện, các bác sĩ tháo khớp tay trái lên tận vai. Trước đây tôi tham gia môn bóng đá, từ khi bị tai nạn lao động, đời cầu thủ của tôi đã kết thúc. Từ khi phong trào cầu lông huyện Vũng Liêm hình thành, tôi rẽ sang nghiệp này.

Ông Ba Vui, Giám đốc THVH huyện Vũng Liêm cho biết: “Nguyễn Văn Tài, VĐVkhuyết tật môn cầu lông có những nét chơi rất riêng, thể hiện tinh thần thi đấu cao, ấn tượng, khá ổn định. Anh là người đến với câu lạc bộ cầu lông của huyện nhà đầu tiên, là VĐV nòng cốt và cũng là mũi nhọn của tỉnh. Trong những lần thi đấu, anh đều đạt thành tích cao, đem vinh dự về cho tỉnh nhà”.

Nguyễn Văn Tài sinh năm 1966 ở tại khóm 1, thị trấn Vũng Liêm (huyện Vũng Liêm, Vĩnh Long).

Anh là thợ may mui, nệm, yên xe. Anh sống cùng vợ và hai con, cuộc sống của anh rất hạnh phúc, vợ con anh luôn tạo mọi điều kiện trong tập luyện cũng như những lần tham gia thi đấu.

Lòng đam mê môn cầu lông khiến anh luôn luyện tập, học hỏi kỹ thuật để nâng cao trình độ. Anh Nguyễn Văn Tài tâm sự: “Mỗi lần tham dự các giải đấu thế giới, được va chạm những VĐV có các lối đánh mới mẻ, hiệu quả chính xác cao, là cơ hội cho mình học hỏi rút kinh nghiệm”. Hiện nay, anh đang hăng say luyện tập để chuẩn bị đi dự giải ở Hà Nội. Đây là cuộc thi đấu quan trọng vì lúc tuyển chọn VĐV Việt Nam tham dự PARA SEA Games do nước ta tổ chức.

Cô gái có đôi tay vàng

Đôi bàn tay thoăn thoát từng đường kim mũi chỉ trên lá, để hoàn thiện chiếc
nón nằm gọn trên bộ khung, thỉnh thoảng môi nở nụ cười khi trả lời câu hỏi gì,
đã đem lại cho cơ sở Nhịp cầu bầu không khí ấm cúng và bạn bè đồng cảnh ngộ xích
lại gần nhau hơn, kể từ khi chị đến dạy nghề chằm nón …





Chị là Đỗ Thị Ngọc sinh năm 1972 quê ở ấp Tân Bình, phường Trường Lạc ( Ô Môn, Cần Thơ). Với tấm lòng thương người cùng cảnh ngộ, Ngọc từ giã làng quê êm đềm lên ở tại cơ sở nhịp cầu, ngày ngày dạy cho bạn bè học nghề chằm nón để sinh sống và hội nhập cộng đồng.

Ngọc là người rất khéo tay, ngoài chằm những chiếc nón lá bóng bẩy, xinh xắn tạo nên nét duyên ngầm của thiếu nữ, đôi bàn tay tài hoa Ngọc còn chế ra nhiều kiểu nón lá khác như: Bộ nón cối kiểu Trung Quốc gồm 6 chiếc xinh xắn từ lớn đến nhỏ bằng bàn tay, được treo lủng lẳng chào hàng trông thật xinh xắn bên cạnh những chiếc nón kết bóng láng.

Với nụ cười thật hiền trên khuôn mặt bầu bĩnh, với giọng trầm trầm Ngọc đã thố lộ cuộc đời của mình:

- Hai chân em bại liệt do di chứng cơn sốt lúc còn 3 tuổi, cha mẹ hết lòng chạy chữa nhưng đôi chân ngày càng teo nhỏ. Mọi sinh hoạt bình thường, em thường dùng đôi tay để di chuyển đi lại. Tuổi thơ, Ngọc không đến trường học vì quê nhà thuộc vùng sông nước, đò giang cách trở, Ngọc biết đọc, biết viết nhờ anh chị chỉ dạy. Gia đình đông anh em, cuộc sống khó khăn vì không đất đai, năm lên 10 tuổi Ngọc theo mẹ xuôi ngược đi bán hàng bông trên chiếc ghe nhỏ khắp vùng quê sông nước. Công việc của Ngọc là chèo trước mũi ghe, phụ mẹ bán hàng, tính tiền, nấu cơm.

Mấy năm dài lênh đênh ngược xuôi sông nước, mẹ con hôm sớm bên nhau. Cứ nửa tháng, hai mươi ngày hai mẹ con lại ghé thăm nhà. Rồi đến một ngày, cuộc đời thương hồ vất vả mà cũng chẳng khá hơn ai, thế rồi hai mẹ con từ giã chiếc dằm, con đò trở lên bờ làm ruộng. Từ đó, Ngọc ở nhà thui thủi một mình giúp gia đình nấu những bữa ăn…

Cuộc sống lặng lẽ, âm thầm trôi đều cho đến một ngày năm Ngọc 15 tuổi, chị Thảo chị của Ngọc trọ học ở huyện, ở gần nhà làm nghề chằm nón, Thảo học lóm về hướng dẫn phương pháp sơ qua cho Ngọc làm. Đôi bàn tay run run tháo bung chiếc nón để nghiên cứu tìm tòi, ba của Ngọc tìm mua được bộ khung và lá đem về cho con mày mò tập làm, với đức tính chịu thương chịu khó cộng với sự thông minh, đôi bàn tay khéo léo những chiếc nón ra đời, lúc đầu hơi thô, đường kim mũi chỉ chưa đều, nhưng khuyến khích tay nghề, những chiếc nón Ngọc làm ra được bà con ủng hộ mua giúp. Dần dần nghề dạy nghề, những chiếc nón làm ra bóng bẩy, xinh xắn và các chiếc nón của Ngọc thường có mặt ở các sạp hàng bán ở chợ. Từ đó, Ngọc rất vui vì có đã có tay nghề, làm ra của cải nuôi sống bản thân mình. Tiếng lành đồn xa, nghề chằm nón càng ngày càng xinh xắn, tiêu thụ nhanh được nhiều người biết đến. Chị em trong xã đến nhờ Ngọc dạy nghề, Ngọc vui vẻ chỉ bày tận tình, tính đến nay cũng hơn mười chị em người bình thường đã làm ra những chiếc nón xinh xắn. Điều vui đến với Ngọc là nơi ở của Ngọc đã trở thành nghiệp đoàn chằm nón lá xóm Trường Lạc với hơn ba mươi người.

Năm 2002, quận Ô Môn tổ chức hội thi làng nghề truyền thống Ngọc đoạt giải 3. Qua năm 2003, Ngọc dự thi đã vượt qua 30 người của 15 nghiệp đoàn chằm nón trong vùng, Ngọc được vinh dự đoạt giải nhất trong khi Ngọc là NKT.

Qua bao năm tháng trong nghề chằm nón: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh Ngọc trở thành cột trụ vững chắc cho gia đình, mua được tivi, sắm dàn Karaoke để Ngọc và bạn bè trong xóm giải trí.
Hiện nay, Ngọc không ngại khó khăn, tận tình chỉ bày cho chị em đồng cảnh ngộ học nghề chằm nón tại cơ sở mỹ nghệ Nhịp Cầu.

Vừa qua, hội nghị NKT tại Hà Nội, Ngọc là nhân vật điển hình NKT lao động sản xuất giỏi.
Mặc dù cơ thể Ngọc mang khiếm khuýêt, Ngọc vẫn dùng bàn tay, khối óc để tạo cho mình có cuộc sống ý nghĩa hơn, sản phẩm làm ra làm đẹp cho đời, hoà nhập cộng đồng. Tôi thật khâm phục ý chí và nghị lực một người tự vươn lên như Ngọc.
NGUYỄN VĂN TÀI -

Thứ Tư, 24 tháng 10, 2007

Nghị lực của một người khuyết tật



Chị Bùi Thị Hồng Nga, Chủ tịch Câu lạc bộ Người khuyết tật Cần Thơ đã giành 1 trong 15 giải chính thức cuộc thi “Ngày sáng tạo Việt Nam” tại Hà Nội do Ngân hàng Thế giới tổ chức, được thưởng 10.000 USD để thực hiện dự án dạy nghề miễn phí cho người khuyết tật tại Cần Thơ.


Đã 45 tuổi, đi lại bằng nạng gỗ nhưng trên khuôn mặt phúc hậu của chị luôn nở nụ cười trẻ trung và ánh mắt ấm áp thể hiện một nghị lực mạnh mẽ. Cơn sốt bại liệt lúc 8 tháng tuổi làm cho đôi chân trở nên tật nguyền, tuy nhiên, hồi nhỏ chị còn bước nhúc nhắc đến trường được dù đã phải dựa vào nạng gỗ. Năm 24 tuổi (1982), chị tốt nghiệp Đại học sư phạm Anh văn, đi dạy ở trường PTTH Nguyễn Việt Hồng, TP Cần Thơ. Đến năm 1989 thì hai chân teo hẳn sau một lần… mổ chân ở bệnh viện trên thành phố Hồ Chí Minh và phải về hưu non vì thiếu sức khỏe. Lúc đó, Hồng Nga đã nghĩ đến cái chết nhưng chị chưa thể chết là vì người thân, bạn bè. Suốt ngày âm thầm một bóng, chiếc radio là người bạn chân tình cùng chị sống trong những ngày khốn khó, chị không ngờ đó lại mở ra cho chị con đường đi vào cuộc sống mới: “Trao đổi thư từ với những người khuyết tật qua mục kết bạn. Dần dần “đứng dậy” tìm lại niềm vui cuộc sống”. Năm 1990, hạnh phúc lớn lao đến với chị, chồng chị là người đàn ông khỏe mạnh, biết cảm thông chia sẻ, ngoài việc làm vườn lo kinh tế gia đình anh còn giúp chị hòa nhập vào xã hội. Năm 1994, trở lại nghề mô phạm, mở lớp dạy Anh văn tại nhà, ngoài ra còn sáng tác thơ văn, chị đã đoạt giải 3 cuộc thi thơ chủ đề “Một thế giới, một tâm hồn” do tỉnh Cần Thơ tổ chức năm 1999. Tháng 12/2002, tham dự cuộc thi “lập dự án khởi nghiệp” của Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh, đoạt giải khuyến khích…

Ngày 1/5/2001, được sự giúp đỡ của một số cơ quan, chị tổ chức cuộc họp thành lập Câu lạc bộ Người khuyết tật Cần Thơ có 20 hội viên. CLB đã được Sở LĐ-TB-XH Cần Thơ giúp đỡ.

Chiếc kiếng cận trên khuôn mặt bầu bĩnh, trông chị thật trong sáng. Chị Hồng Nga tâm sự:

- Từ khi thành lập CLB, với 5 triệu đồng do Sở LĐ-TB-XH Cần Thơ giúp, ngày 1/11/2002 chúng tôi lập tổ hợp sản xuất mỹ nghệ “Nhịp cầu” và đã lo được cho anh chị em khuyết tật đỡ đói khát. Còn với 10.000 USD của giải thưởng “Ngày sáng tạo Việt Nam” thì là món tiền mơ ước. Số tiền đó đã mở 3 khoá huấn luyện dạy nghề miễn phí, mỗi khoá huấn luyện 6 tháng, đào tạo được 38 học viên toàn NKT tại cơ sở sản xuất kinh doanh tại số 95A/4 ấp Thới Nhựt, xã An Bình ( Ninh Kiều, Cần Thơ). Đây là cơ sở dạy nghề duy nhất cho NKT ở Cần Thơ. Sau khi huấn luyện có tay nghề, chị tìm công ăn, việc làm cho các học viên. Liên hệ xin mở shop nhịp cầu tại siêu thị Coop Mark để bán và giới thiệu hàng mỹ nghệ do NKT làm.

Chị nỗ lực không biết mệt mỏi cùng với các nhà hảo tâm lo được 114 chiếc xe lăn và xe lắc tặng cho người khuyết tật, tặng 135 gậy cho người mù.

Tạo điều kiện để đa số NKT cơ sở Nhịp Cầu được đi tham quan du lịch trong và ngoài tỉnh trong ngày Quốc tế NKT (3/12). Thể thao – Văn nghệ cơ sở Nhịp Cầu đã đóng góp tích cực đem về những thành công nhất định. Qua năm năm dự thi thể thao NKT toàn quốc và các nước bạn đã đoạt được 114 huy chương trong đó có 34 HCV. Về Văn nghệ tham dự 2 cuộc thi đoạt giải 2 và giải 3 toàn quốc, ngoài ra còn 7 cuộc giao lưu với các hội bạn.

Từ ngày đứng ra lo cho NKT chị đã đi tập huấn, hội thảo, hội nghị nhiều nơi trong và ngoài nước qua nhiều chủ đề dành riêng cho người Khuyết Tật hội nhập vào cuộc sống cộng đồng. Hồng Nga cũng là thành viên trong Ban trù bị chấp hành Hiệp hội sản xuất kinh doanh dịch vụ NKT Việt Nam tại Hà Nội.

Kết hợp nhiều tổ chức giúp học bổng cho học sinh nghèo, làm cầu, làm nhà. Giúp tiền trị bệnh cho NKT, xây nhiều nhà vệ sinh dành cho NKT, tổ chức đám cưới văn minh, tiết kiệm cho NKT. Tham gia nhiều cuộc thi, viết về nhiều dự án, được lãnh nhiều giải thưởng do các báo tổ chức. Ngoài ra chị đã kêu gọi nhiều tình nguyện viên người Hà Lan đến dạy sinh ngữ miễn phí , giúp cho công nhân NKT mở mang trí thức. Từ đó đến nay đã được 7 khoá, mỗi khoá 1 tháng.

Qua năm năm phụ trách chủ nhiệm “cơ sở nhịp cầu” thời gian không dài nhưng cũng lắm thăng trầm, những khó khăn mà chị phải đối mặt đó là không ổn định nơi ăn chốn ở cơ sở Nhịp cầu, mấy chục tay thợ gắn bó với cơ sở luôn lận đận, mà hầu hết là những người khuyết tật vận động cần có việc làm và chỗ ở ổn định sinh hoạt. Qua bao khó khăn đầy gian nan thử thách, giờ đây chị Hồng Nga đã vui mừng, tạm thời tạo dựng cơ sở Nhịp cầu có nơi ăn chốn ở ổn định.

Với một ý chí vươn lên mạnh mẽ, chị tạo dựng cho mình một tổ ấm hạnh phúc, bên cạnh đó, tâm niệm của chị là chăm lo đời sống những NKT có cùng cảnh ngộ như mình, tạo công ăn việc làm, hoà nhập cộng đồng.

Người dị tật tài hoa



Cơ thể không bình thường, mang dị tật từ lúc chào đời, người đàn ông Khơ-me có nhiều tài như đàn, hát, làm trò hài hước được mọi người mến mộ này đã từng làm Trưởng Trạm truyền thanh HTX Vị Hòa (Vị Thanh – Cần Thơ), Trưởng Đội văn nghệ ấp 11 (Phường 3, thị xã Vị Thanh) từ 1975 – 1992. Hiện nay, anh Danh Tài là người thợ sắp lắc, sạc bình ắc quy ở ấp 6 xã Vĩnh Thuận Tây (Vị Thủy – Cần Thơ).





Suốt một ngày khó khăn tìm kiếm chúng tôi mới gặp được Danh Tài. Anh nở nụ cười hiền lành cho biết: “Tôi ít thích ngồi không, tay chân không lành lặn như người ta nhưng làm việc riết rồi cũng quen. Sạc bình, sắp lắc, giăng lưới cắm câu, đàn cò, đàn thùng… tôi làm được hết.”

Danh Tài bị tật bẩm sinh, tay trái chỉ có một ngón cái, tay phải ba ngón nhưng hai ngón giữa lại dính liền nhau. Đôi chân gây trở ngại cho anh trong sinh hoạt hằng ngày, chân phải dài 4 tấc không có đầu gối, bàn chân 3 ngón. Chân trái dài 2 tấc, 4 ngón chân dính liền vào đùi. Anh đi bằng cách bò lết. Trong thời gian tham gia công tác văn hóa – văn nghệ, anh đã đi biểu diễn nhiều nơi như Tỉnh Sóc Trăng, Cần Thơ đem lại thành tích cho xã nhà. Trạm truyền thanh HTX Vị Hòa được Bộ trưởng VH-TT tặng bằng khen (1992). Bản thân anh được tặng nhiều bằng khen và giấy khen của Sở VH-TT, Hội Chữ thập đỏ Tỉnh Hậu Giang (cũ). Anh rất có duyên làm hài hước, một phần do cơ thể dị biệt của mình tạo nên nhiều trận cười thích thú cho khán giả. Thời gian sau này anh sinh sống bằng nghề giăng lưới cắm câu, bà con thấy anh vất vả nên thương tình giúp đỡ cho mượn máy nổ để sạc bình tạm sống qua ngày. Danh Tài bộc bạch: “Từ lúc điện công nghiệp về tận nông thôn, ít hộ sạc bình, nghề này gặp khó khăn, nhờ làm ăn có uy tín và được bà con thương nên còn bám nghề”. Anh Tài cho biết, sắp đến, anh được Nhà nước cấp nhà tình thương cho người dân tộc. Hiện nay anh sống trong nhà lá nhỏ với vợ và hai đứa con.



Ông Trần Thiện Thao, Bí thư Phường 3, Thị xã Vị Thanh cho biết: “Người dân ở đây ai cũng thích Danh Tài, đã nhiều năm anh góp công sức cho đội văn nghệ ấp 11. Trong tương lai, chúng tôi định mời Danh Tài ra tiếp tay cùng đội văn nghệ của Phường”.

Ngày 27-11-2001, anh Danh Tài được cấp xe lăn. Lần đầu ngồi xe lăn, anh rơm rớm nước mắt nói: “Cả cuộc đời đi bằng bò lết, thân hình nặng nề, nay ngồi xe thấy nhẹ nhàng làm sao!”. Mặc dù cơ thể mang dị tật, anh vẫn luôn lạc quan yêu đời, luôn năng nổ vượt lên số phận, tự xoay sở kiếm sống, đem tiếng cười đến cho mọi người và làm cho cuộc sống của mình có ý nghĩa hơn. Thật đáng trân trọng.

Thứ Ba, 23 tháng 10, 2007

Vươn lên tìm chổ đứng


Cô gái hai chân co quắp, tay mân mê cọng dây chuyền vàng xinh đẹp, đôi mắt sáng
săm soi, môi nở nụ cười mãn nguyện tự tin, qua sản phẩm em làm hoàn tất vừa nói
lên tâm tư, nguyện vọng luôn cả ước mơ của em đối với cuộc sống.


Em là Nguyễn Thị Bích Ngọc, thợ vàng bạc đã tham dự kỳ thi xác định thợ bậc 4/7 khóa 1/2003 (nghề vàng bạc) của Tổng cục Dạy nghề Bộ Lao động -TBXH.

Nụ cười hiền lành, giọng nhỏ nhẹ, Bích Ngọc thố lộ: “Số phận không cho em nguyên vẹn đôi chân, để có được tay nghề như hôm nay em trải qua không biết bao nhiêu khó khăn nghiệt ngã. Từ nhà nuôi dưỡng đến nơi học nghề phải đi đoạn đường 4 km thời gian hơn 3 năm, lúc học chân không thể đạp cóc đèn được, nhiều lần thầy khuyên nên chọn một nghề khác hợp với khả năng bệnh tật của em. Với quyết tâm tạo cho mình có tay nghề, em đều đặn đến lớp không bỏ một buổi học nào. Niềm đam mê nghề nghiệp giúp em vượt lên mọi khó khăn bệnh tật, cuối năm 2003 em thi thợ bậc 5/7 nghề vàng bạc”.

Nguyễn Thị Bích Ngọc sinh năm 1984, bị cơn sốt bại liệt làm hai chân co quắp từ lúc em 5 tuổi. Cha mất sớm khi em chào đời chỉ được 15 ngày. Hiện ở cùng mẹ già 63 tuổi tại Nhà nuôi dưỡng người già và trẻ mồ côi không nơi nương tựa phường An Thới, TP Cần Thơ.

Cô Nguyễn Thị Minh Phương, Phó giám đốc nhà nuôi dưỡng cho biết: “Trước đây hai mẹ con Bích Ngọc không nhà cửa, hàng ngày bán chuối nướng trước bệnh viện 30 tháng 4. Do hoàn cảnh mẹ già, con tật nguyền, được bệnh viện giới thiệu đến ở “mái nhà” này vào năm 1998. Chúng tôi thấy Bích Ngọc thông minh sáng dạ, ham học hỏi, thương yêu mọi người nên tạo điều kiện cho em học nghề để sống và nuôi mẹ già. Và em đã làm được điều mong đợi của chúng tôi. Theo tinh thần của Hội Chữ thập đỏ tỉnh Cần Thơ, khi các cháu có nghề ổn định, tuổi từ 18 đến 20 thì ra đời về địa phương sinh sống. Cháu Bích Ngọc là một trong số những người đó”.

Bích Ngọc cố gắng học hỏi, chuyên sâu nghề vàng bạc để thành tay thợ lành nghề đồng thời ở lại trường dạy nghề, đem khả năng cống hiến cho Hội người khuyết tật, giúp các bạn cùng cảnh ngộ như mình có tay nghề hội nhập vào cuộc sống. Mơ ước của em là mong các nhà hảo tâm giúp cho em chiếc xe làm phương tiện đi lại dạy nghề, bớt đi phần vất vả.

Chàng họa sĩ tật nguyền tài hoa

Hồ Hoàn Kiếm, họa sĩ khuyết tật, vẽ ở số nhà 330B đường Nguyễn Văn Cừ, phường An Hòa (TP Cần Thơ). Mái tóc dài bồng bềnh, khuôn mặt rất nghệ sĩ, ngồi trên chiếc xe ăn, anh cho biết: Anh là nạn nhân chiến tranh, bị thương vào năm 13 tuổi khi đi thăm hai anh trai ở vùng căn cứ cách mạng.

Lúc anh nằm điều trị tại bệnh viện Bạc Liêu, bác sĩ mổ cho biết đám rối dây thần kinh tổn thương, hai chân anh không thể đi lại được. Biết mình suốt đời bị bại liệt, anh rất buồn khổ. Nhờ mọi người trong gia đình lo chạy chữa và thương yêu hết mình nên Kiếm vơi dần nỗi bất hạnh.

Gia đình thấy Kiếm có khiếu về vẽ nên đã tạo điều kiện cho học nghề vẽ. Gia đình rước họa sĩ về nhà dạy vẽ cho anh. Anh học tiến bộ rất nhanh. Gia đình đưa anh vào học khóa hội họa năm 1969 đến năm 1971 tại trường Mỹ thuật Á Châu (TP Sài Gòn cũ).

Trong thời gian này, gia đình vẫn tiếp tục chạy chữa cho anh, nhưng tiền mất tật mang, hai chân càng ngày càng teo nhỏ, anh mất cảm giác từ lưng trở xuống.

Hai người anh trai của Kiếm đều anh dũng hy sinh. Liệt sĩ Hồ Văn Trường mất năm 1969, liệt sĩ Hồ Văn Tòng mất năm 1970, chôn tại nghĩa trang liệt sĩ Hòa Tú (Sóc Trăng).


Rồi cha mẹ qua đời, Kiếm nhờ vào nghề vẽ kiếm tiền sinh sống. Để lấy ngắn nuôi dài, anh vẽ chân dung, truyền thần cho khách. Chính yếu là vẽ tranh sơn dầu trên vải. Đa số tranh của anh vẽ đều nói lên cái đẹp toàn diện của quê hương Việt Nam.

Chúng tôi nhìn vào bức tranh anh đang vẽ người mẹ cho con bú, anh hiểu ý liền nói: - Bức tranh này tên là “Hai dòng phù sa” nói lên sông Tiền và sông Hậu hợp lại tiêu biểu sức sống của người dân hai miền sông nước.





Những bức tranh sơn dầu của anh phần nhiều bán cho người nước ngoài như Đài Loan, Nhật và các nước Tây Âu.

Tranh của anh chất phác, giản dị, thể hiện vẻ đẹp hiền hòa của người con gái Việt Nam như bức tranh cô gái quê mặc áo bà ba xõa tóc, ngồi chằm nón trong bối cảnh thanh bình của quê hương đã thuyết phục rất nhiều khách ngoại quốc. Vị khách Đài Loan đã bỏ cọc tiền mua bức tranh đó. Tranh sơn dầu của anh thường bán giá từ 100 USD đến 300 USD. Những hình vẽ chân dung, truyền thần giá một trăm nghìn đồng.

Thấy tình hình sức khỏe của Kiếm suy giảm, mất ngủ nhiều, nên người anh của anh ở Phần Lan đã gởi về cho anh cái nệm nước.

Anh vui vẻ nói: Nhờ có chiếc nệm, cơ thể cử động xoay trở dễ dàng hơn. Nệm chứa một khối nước, dài 2,4 m, rộng 1,6 m và cao 0,4 m. Trời nực, hơi nước ở nệm tạo cho cảm giác dễ chịu. Khi trời lạnh có điện trở đặt bên trong tạo nên độ ấm.

Căn nhà anh chỉ sống một mình, nên anh đã cho những sinh viên nghèo, trẻ em cơ nhỡ về nương tựa. Nhiều sinh viên tốt nghiệp, có công ăn việc làm, cảm mến cái tình, cái nghĩa vẫn còn ở lại với anh như anh Lê Phước Thọ làm ở Khách sạn Victoria, anh Võ Thái Hệ làm tại Công ty cá ba sa.

- Chuyện tình cảm riêng tư của anh?


Anh cười thổ lộ:

- Cô gái làm người mẫu trong bức tranh cô gái quê xõa tóc ngồi chằm nón, đó là người mà tôi sẽ đến…

Thứ Bảy, 20 tháng 10, 2007

Thợ sửa điện tử bằng miệng


Trên đường từ thị xã Trà Vinh đi xuống huyện Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh ) vừa qua cầu Vĩnh Kim nhìn về bên trái có tấm bảng “ÚT ĐIỆN TỬ”. Đó là tiệm sửa chữa điện tử của anh Lê Văn Hiếp 48 tuổi, số nhà 3A, ấp Chà Và, xã Vĩnh Kim (Cầu Ngang,Trà Vinh)


Anh sinh ra trong gia đình có tới 10 anh em, vừa lúc mở mắt chào đời đã mang dị tật, hai chân, hai tay teo nhỏ, co quắp dị dạng. Tuổi thơ đến với anh là những ngày cực nhọc. Út Hiếp tâm sự : “ Cha mẹ cố gắng cho tôi đến lớp 7, so ra với các anh thì tôi may mắn hơn, suốt thơi gian đi học được cha mẹ và các anh thay đổi cõng tôi đi”.

Riêng anh chỉ xê dịch qua lại bằng cách dùng hai bàn chân lật ngược, hai mu bàn chân tiếp xúc với mặt đất.

Động cơ nào đưa anh đến với nghề sửa chữa điện tử, một nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ chính xác, trong khi hai tay anh không cử động được?

-Hồi nhỏ tôi suy nghĩ nhiều lắm, đi xin ăn thì không làm được. Còn muốn học một nghề gì đó phải tốn tiền trong khi gia đình tôi nghèo hơn nữa thân thể dị dạng tật nguyền của tôi chẳng ai nhận cho học.

Với ý chí vượt lên nghiệt ngã, với ước mong tự tìm cho mình một nghề để nuôi bản thân. Thế rồi, cơ may đến với anh, một người anh bà con học nghề vô tuyến điện ở TP Hồ Chí Minh về, Lê Văn Hiếp tìm đến mượn tài liệu về nhà tự học. Với lòng đam mê Hiếp đã kiên trì mày mò học hỏi. Nhờ sáng dạ và toàn tâm toàn ý, anh tiếp thu nhanh, ngoài ra anh nhờ bạn bè thương tình chỉ thêm cho bí quyết. Đời không phụ lòng anh, từ từ anh trở thành một thợ sửa chữa điện tử giỏi trong vùng.







Hiếp vui vẻ kể : “Cuộc sống của tôi là chuỗi ngày học hỏi không ngừng, khi đã thuộc lý thuyết về sửa chữa, thân thể tôi có nhiều khiếm khuyết, tôi phải học cách dùng bàn chân và miệng để thay thế đôi tay. Mới đầu thật khó khăn, vất vả, làm gì cũng lúng túng, nhưng với ước mong tự lập từ từ tôi tập quen dần, chức năng miệng và chân thay cho tay hầu hết mọi công việc như sử dụng chì hàn, chỉnh máy, cầm kim đo máy, miệng cắn mỏ hàn trong vị thế nào để hàn chính xác. Tôi luôn chăm bồi nghề nghiệp, phải học tên những linh kiện điện tử, những cách sử dụng băng, đĩa, máy truyền hình đời mới vì sợ nghề mình lỗi thời, lạc hậu rồi bị đói. ”

Chị Nguyễn Thị Đèo, người vợ đã chung sống 25 năm, rất thương anh, sẵn sàng chia sẻ niềm vui nỗi buồn, động viên an ủi anh trong cuộc sống cũng là nguyên nhân để anh thành thợ giỏi hôm nay, tiếc là hai người chưa có tíếng khóc trẻ thơ để căn nhà thêm ấm cúng.

Anh tâm sự: - Làm nghề này không có vốn, khó mà khá được, sống qua ngày là may lắm rồi. Có lúc mình cũng thấy hạnh phúc nhìn bà con, khách hàng hân hoan, vui vẻ nhìn mình sửa máy thành công.

Người xưa thường nói “ Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”. Còn anh Ut Hiếp thì đã 30 năm trong nghề vẫn trắng tay, làm ngày nào sống ngày đó trên căn nhà ăn nhờ ở đậu của bà con tốt bụng.
Ngoài những giờ lao động trí óc căng thẳng mệt mỏi, cây đàn guitar phím lõm là người bạn giải buồn của anh. Mỗi lần anh đàn, cây đàn để nằm, bàn chân ấn lên phím đàn thuần thục, bàn tay gảy dây đàn tạo nên âm thanh dìu dặt lôi cuốn lòng người.

Mặc dù anh cố gắng vượt bậc, nhưng vốn liếng không có nên cuộc sống nghèo khó vẫn đeo bám theo anh, tay nghề của anh mai đây dần dần đi vào mai một. Vì hiện nay, cuộc sống hiện đại văn minh, nhất là những sản phẩm nghe, nhìn. Hư ở bộ phận nào thì người ta thay thế bộ phận đó, trong khi anh không bán dụng cụ, linh kiện mà chỉ sửa chữa bằng lối xưa đã lỗi thời. Anh Hiếp vượt lên số phận tật nguyền, có một nghị lực phi thường, cần mẫn học hỏi để tự nuôi sống bản thân và gia đình. Nhưng cuộc sống hiện nay anh gặp quá nhiều khó khăn. Mong sao các cơ quan, đoàn thể tạo điều kiện giúp anh để bớt phần nào khó khăn.

Đôi tay cụt vun tồng tương lai





Anh như con chim cánh cụt cần mẫn, tay phải cụt gần cùi chỏ, tay trái cụt tới vai, những gì còn lại của hai cánh tay anh vin vào đó miệt mài lao động trên mảnh đất một công rưỡi cha mẹ để lại tự tạo cuộc sống cho riêng mình.

Anh là Trần Văn Thủ ở ấp Thới Thuận 2, xã Thới Thạnh (Ô Môn, Cần Thơ), con thứ năm trong gia đình 6 anh em, cha mẹ mất sớm, anh em đều lập gia đình và chẳng ai khá giả gì, anh sống một mình trong căn nhà lá tuyềnh toàng được cha mẹ để lại.

Anh Thủ tâm sự: “Năm nay tôi 41 tuổi, tuổi thơ nghịch ngợm theo bạn bè lấy thuốc đạn dồn vào ống típ đốt chơi, thuốc đạn bốc cháy đã lấy đi hai cánh tay lúc tôi 10 tuổi, đến nay hơn 30 năm rồi. Lúc cha mẹ không còn trên cõi đời này, vì miếng cơm manh áo, tôi làm đủ mọi công việc, có lúc bằng cẳng tay, có lúc làm bằng hai chân, phải cật lực, bươn chải để tìm sự sống cho mình và tôi đã sống được”.

Công rưỡi đất cha mẹ để lại, anh chăm chỉ gieo trồng như một nông dân thực thụ, không cho đất nghỉ. Cuộc sống của anh là một nắng hai sương, cây màu này cho trái, cho củ thu hoạch xong anh lại gieo cây màu khác, trung bình một năm thu hoạch được 4 đến 5 triệu đồng. Anh còn đi làm mướn kiếm thêm tiền như đào hộc mía, ban đám mạ…

Mặc dù hai tay không còn nguyên vẹn, nhưng anh Thủ làm được mọi công việc như nấu cơm, vo gạo, rửa chén, xắt rau cải, xách nước tưới cây, đào đất. Anh nhổ cỏ bằng hai chân kẹp lại, bắt cá cũng vậy, anh bắt cá lóc bằng chân rất tài tình, ai cũng đều phục tài của anh.

Ông Nguyễn Văn Lộc, Chủ tịch Mặt trận xã Thới Thạnh cho biết: “Anh Trần Văn Thủ siêng năng và chịu thương chịu khó lắm, tự tìm miếng cơm manh áo bằng mồ hôi ướt đẫm của mình, anh đã làm được nhiều việc và chưa khi nào anh tỏ ra chán nản hay than vãn sự khó khăn phải đối diện công việc từng ngày. Chúng tôi rất cảm phục và yêu mến”.

Về mơ ước, anh không ngần ngại nói: “Mong sao được các cơ quan chức năng tạo điều kiện giúp cho đôi tay giả để lao động dễ dàng hơn”.

Hỏi về bạn gái, anh cười không nói.



Thứ Sáu, 19 tháng 10, 2007

Cô gái mù hiếu thảo




“Tôi sống đến ngày hôm nay là nhờ vào đứa con gái mù lòa gặt thuê cấy mướn, nó làm đủ mọi công việc kiếm gạo nuôi tôi. Thấy con mù lòa phải quần quật làm thuê suốt tháng suốt năm, nghĩ mà nhói cả lòng” – Lời của bà Huỳnh Thị Hai, 72 tuổi, cụt chân, mẹ của cô gái mù Nguyễn Thị Chậm ở ấp 1, xã Vĩnh Thuận Tây (Vị Thủy, Cần Thơ) thật cảm động.

Nguyễn Thị Chậm sinh năm 1966, di chứng ban sởi đã làm mù đôi mắt lúc cô 11 tuổi. Gia đình nghèo, không đất đai nên dù mù lòa cô vẫn phải lao động cật lực để kiếm cơm ăn, nuôi mẹ già vừa bị cụt chân, cổ lại bị bướu hành hạ. Cô không từ công việc gì người ta thuê mướn như cấy lúa, gặt lúa, làm cỏ, trồng màu…về nhà thì nấu rượu, nuôi heo…

Cô Chậm tâm sự: “Người sáng mắt họ làm nhanh, còn mù như em làm chậm, ba ngày mới gặt xong một công lúa chỉ được 35.000 đồng. Nhờ siêng năng cần mẫn nên được bà con thương, việc gì khả năng em làm được bà con kêu làm. Đời làm thuê làm mướn nhiều gian khổ, nhất là phải ngâm mình trong nước bùn, gặt trong ruộng lúa khép kín của đê bao còn giữ thuốc trừ sâu, phân bón, hóa chất. Mẹ em đau ốm, bệnh tật nên em càng phải cố gắng làm để kiếm tiền giúp mẹ”.
Nhìn căn nhà trống trước hở sau, một cô gái mù với mẹ già cụt chân vin tựa vào nhau để sống, chúng tôi không khỏi bùi ngùi thương cảm.

Anh Nguyễn Văn Nở, Chủ tịch Hội người mù huyện Vị Thủy (Cần Thơ) nhận xét: “Cô Nguyễn Thị Chậm là hội viên tiêu biểu về lao động và là người con hiếu thảo. Cuộc sống khó khăn, vất vả nhưng cô không bao giờ than phiền hay oán trách”.

Nhọc nhằn gian khổ trên đường kiếm bát cơm manh áo cho gia đình. Vậy mà cô Chậm luôn nở nụ cười, bằng sức lao động, bằng mồ hôi ướt đẫm của mình để kiếm đồng tiền bát gạo nuôi thân và mẹ già. Thật đáng trân trọng.

Tấm lòng nhân ái



Tại điểm sửa xe gắn máy, xe đạp tại ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lê Lợi đối diện chợ Trà Vinh, ông thợ sửa xe là một người khuyết tật, hai chân liệt và một tay teo nhỏ, tất cả công việc chỉ nhờ vào tay trái. Gặp chúng tôi, anh vui vẻ cho biết:

- Tôi là Lê Trường Thọ, năm mươi tuổi, con thứ ba trong gia đình 7 anh chị em, bị bệnh sốt bại liệt lúc 3 tuổi và từ đó trở thành khuyết tật.

Sinh trong một gia đình nghèo, đông anh em, vào năm 1969 anh cố gắng vượt mọi gian khổ cố gắng học lấy một nghề để nuôi thân.

Cuộc sống của anh tạm đắp đổi qua ngày, thì người em ruột của anh là Lê Thành Tài bị thương cụt hai chân ở chiến trường. Năm 1986, Tài trở về. Anh là thương binh 1/4.

Thế là tiệm sửa xe của anh có thêm một người khuyết tật, hai anh em đều biết rõ những nỗi khó khăn, trở ngại về di chuyển của những người cùng chung số phận, đồng tâm hiệp lực, sau nhiều ngày nghiên cứu, tìm mua những máy cũ về mày mò và chế ra chiếc xe ba bánh, có bộ phận đề, cần số bằng tay để người khuyết tật đi lại dễ dàng và nhanh chóng. Chiếc xe ba bánh đầu tiên ra đời vào năm 1991. Cho đến nay, hơn 15 chiếc đã được sử dụng, đặc biệt những chiếc xe sau này có số de để người khuyết tật dễ dàng chạy lui được, giá cả từ 2 triệu đến 5 triệu, toàn bộ máy móc đến lúc hoàn chỉnh, trung bình một chiếc làm mất 8 – 10 ngày.

Ngoài ra, hai anh còn chế xe ba bánh lắc tay. Năm 2001, hợp đồng với Sở Lao động - Thương binh - Xã hội tỉnh Trà Vinh làm 10 chiếc, tiền công 300.000 đ/chiếc.

Ngay tại điểm sửa xe của hai anh là nơi dang rộng vòng tay đón những em lang thang cơ nhỡ, những người thiếu may mắn, đều được anh nuôi và cho học nghề.

Anh Tài tâm sự:
- Tụi tui nghèo lắm nhưng cái lò sửa xe này đã nuôi nhiều em ăn, ở, học thành nghề vững vàng, hiện tại tụi tôi đang nuôi dạy nghề 3 em.

Anh đưa tay chỉ giới thiệu mấy em đang học nghề, em Phan Quang Tý 17 tuổi, mồ côi cha mẹ, sống lang thang đem về nuôi ăn ở, học nghề được 2 năm. Em Thạch Tương 17 tuổi, mồ côi cha mẹ, ở được 1 năm. Em Trương Việt Quang cha chết, mẹ đang ở tù.

Làm nghề ở đây còn gia đình các anh ở đâu? Tôi hỏi:

- Tôi có vợ, 4 con, nhà ở ấp Tầm Phương, xã Đa Lộc, huyện Châu Thành (Trà Vinh). 4 đứa con tôi đều cho học hành, đứa nào cũng đạt khá, giỏi. Còn Thọ em tôi có vợ hai con, được Nhà nước cấp cho nhà tình nghĩa ở 160 khóm 8, phường 7, thị xã Trà Vinh.

Hai anh có ước mong gì? Tôi hỏi tiếp.

- Chúng tôi mặc dù khuyết tật, luôn luôn vượt khó vươn lên, cảm thông những người cơ nhỡ, tấm lòng chúng tôi luôn luôn rộng mở đón nhận những trẻ mồ côi, khuyết tật, vận động về dạy cho họ có nghề nghiệp tự mưu sinh, bớt gánh nặng cho xã hội. Chúng tôi ước mong làm có tiền, sắm chiếc máy điện thoại, để các nơi cần liên hệ được dễ dàng.

Thứ Năm, 18 tháng 10, 2007

Ông già mù với nghề đốn cây mướn

Ngày ngày, người đàn bà tay cầm cưa, tay xách giỏ đồ nghề đi trước, người đàn ông đi sau, vai mang cuộn dây thừng, bàn tay đặt trên vai người đàn bà. Họ lặng lẽ đi, về bên nhau gần 40 năm, từ khi ông còn là một thanh niên, nay đã 71 tuổi…





Bà con ở phường Bình Thủy, không ai lạ gì ông Tám mù, bởi ông bị mù cả hai mắt. Đã mù còn làm nghề đốn cây, đào gốc, cưa cây, hái dừa, những cái nghề đòi hỏi đôi tay khéo léo và đôi mắt tinh tường…

Tên của ông là Lê Văn Hòa, ở cuối hẻm 5, số nhà 52/6 Bùi Hữu Nghĩa, Phường Bình Thủy, TP Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ. Gương mặt nhiều nếp nhăn, hai hố mắt trũng sâu, dáng người khắc khổ nhưng các cơ bắp vẫn còn rắn chắc. Ông Tám bộc bạch: “Tui mù năm 15 tuổi, hồi đó nhà nghèo lắm, phải đi giăng câu phát mướn, giăng câu bằng mồi con trùn, tối trời nên móc trùn vào lưỡi câu, nước dịch ở trùn bắn vào mắt nhiều lần, gây ngứa ngáy chảy nước mắt, đau nhức, rồi mờ dần và mù hẳn vào năm 1946”.

Đôi mắt không còn thấy ánh sáng, nhưng gian khổ, đói rách thì vẫn nguyên vẹn, buộc ông phải lao động kiếm sống. Số phận đưa đẩy ông Tám chọn cái nghề đốn cây, bẻ dừa… Ông Tám chậm rãi nói: “Cháu ơi! Bác tưởng mình mù lòa làm việc này tạm bợ, ai ngờ như có nợ với nhau, đeo đẳng từ lúc chưa sinh đứa con gái, nay nó đã 38 tuổi…”.

Trước đây ông đã có một đời vợ, người đàn bà sinh xong đứa con gái rồi ẵm con đi biệt, đau khổ vì thương nhớ vợ con, nhưng mắt mù không thể đi tìm. Người bạn đời sau này, gắn bó để chia sẻ với ông là bà Nguyễn Thị Tám, nay cũng đã 66 tuổi. Người chồng trước kia của bà Tám là liệt sĩ, hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bà Tám kể lại, khi chồng bà hy sinh, bà vừa làm dâu vừa nuôi con, được ba năm thì cha mẹ chồng đứng ra gả bà cho ông Tám Hòa. Lúc đó bà 28 tuổi. Hai người chung sống cho đến ngày hôm nay, bà vừa là vợ vừa là người dẫn đường, dìu ông đi, về gần 40 năm trong nghề đốn cây. Bà Tám kể lại những khó khăn, cực khổ mà ông Tám nuôi dưỡng đứa con riêng của bà từ sáu tuổi đến năm 18 tuổi thì cưới vợ cho nó. Nay con bà đã 48 tuổi, còn hai ông bà chung sống với nhau có bốn con, hai trai hai gái. Tôi hỏi ông: “Nghề đốn cây, với đôi mắt không thấy gì, có lúc nào nguy hiểm không?”. Ông Tám không cần nghĩ ngợi trả lời: “Nhiều lắm, nhưng có hai lần, quên thì thôi, nhớ lại không khỏi rùng mình sởn gáy…”. Ông Tám đốt điếu thuốc, hít hơi dài chậm rãi kể: “Năm đó tôi 51 tuổi, đốn cây so đũa to và cao trên 16 mét. Khi tôi bứt khúc ngọn ở độ cao chừng 11 mét, sợi dây buộc ngọn cây bị vuột, như đòn bẩy bung lên, bắn tôi cao từ 11 mét rơi xuống đất. Nhờ ơn trời nâng đỡ sao đó, tôi không bị thương gì nặng chỉ uống mấy viên “Trật đả hoàn” rồi lại đi làm. Lần khác, thằng cháu leo lên tiện khúc đọt dừa, tôi đã nhắc nó đốn một mé, cột dây xong mới đốn mé đối diện. Nhưng nó cãi tui, chẳng chịu cột dây. Khi nó la lớn thì khúc dừa đã gãy lìa. Tui mù đâu thấy đường mà chạy, liều đứng một chỗ, khúc dừa rơi cào mạnh vào lưng, tôi chúi mũi đằng trước, nguyên cả lưng trầy nát. Chỉ cần nhích tới một chút là cái đầu tôi dẹp lép rồi…”.

Ông Hòa thở dài nói tiếp: “Nghề này gian nan vất vả lắm cháu ơi, có lúc nhiều ổ ong vò vẽ đóng trên cây, mấy người sáng mắt họ biết nên không nhận làm, bác mù không thấy, như người điếc đâu còn sợ súng, có lúc leo lên đốn cây, ong đốt buông lỏng chân tuột ào xuống gốc cây, về nhà sốt hai ba ngày. Chao ôi ! Cái nghề cực khổ, nguy hiểm. Có điều đáng mừng là trong mấy mươi năm làm nghề, nhiều lúc đốn những cây to lớn, hay những cây sát cạnh nhà người ta đều an toàn không có chuyện gì đáng tiếc xảy ra. Bây giờ chuyện ong đốt đối với ông Tám là chuyện bình thường, ông đã chai lì dần trước cảm giác những nỗi đau thể xác. Ông Tám vừa cười vừa nói: Người ta nói “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh” mà tôi chẳng thân vinh chút nào. Cái nghề đốn cây, tay rời cây cưa, cây búa là đói, là phải lo đi làm. Vả lại lao đọng quen rồi, ở nhà chịu không nổi. Cũng nhờ ơn trời tôi còn khoẻ mạnh lắm. Những công việc như bửa củi, đào gốc, hái dừa tôi đều làm hết. Bẻ một cây dừa là 2000 đồng, đào 1 gốc cây tùy thuộc vào lớn nhỏ giá từ 80000 đồng – 120000 đồng. Cưa cây củi thước từ 30000 đồng – 50000 đồng một thước cây”.

Ông Tám thở dài giọng buồn buồn: “ Nhiều năm rồi bác chưa một lần may quần áo, quanh năm quần quật chỉ mặc chiếc quần lồng, làm được bao nhiêu tiền thì lo cho con, cho cháu”.

Ông kể đứa con trai út 27 tuổi, chẳng lo làm ăn, rượu chè bê tha rồi ẩu đả, rốt cuộc đi cải tạo ở Bến Giá (Trà Vinh). Bây giờ bỏ con không đành mà ôm con không nổi. Hai vợ chồng già nhịn ăn, nhịn uống, chắt chi hai ba tháng thăm nuôi bới xách một lần, có dè xẻn cũng mất bốn, năm trăm ngàn đồng. “ Mấy anh chị con ông bà có giúp đỡ gì không?”, tôi hỏi. Bà Tám chậm rãi nói: “ Con đứa nào nó cũng nghèo, mong sao nó nuôi được bầy con nó là mừng rồi, nghe nói nhà nước sẽ cấp cho tôi nhà tình nghĩa…”

Từ giã ông Tám ra về mà lòng nạng trĩu, ước mong sao ông được những vòng tay nhân ái giúp cho ông để tuổi già tránh bớt rủi ro.

"Lò vẽ" tại gia

Cơ sở vẽ tranh trên áo, trên lụa ở địa chỉ số 72/14A Đề Thám ( Ninh Kiều, Cần Thơ), là địa chỉ tin cậy của nhiều khách hàng trong và ngoài nước thường đến đặt hàng vẽ tranh trên áo, trên lụa… Đồng thời nơi đây cũng là lò vẽ tại gia mà 15 năm qua đã đào tạo hơn 50 học viên tốt nghiệp trong nghề vẽ tranh trên áo.Lò vẽ ở đây rất đặc biệt: Người thầy dạy vẽ này là người khuyết tật, mất cả hai cánh tay và chân phải bị cụt lên đến gối.


Anh là Trần Hùng Bảo, chủ nhân lò vẽ. Nói là lò vẽ chứ thật ra mỗi khoá anh Bảo chỉ đào tạo 2 hoặc 3 học trò. Đây là lò vẽ đặc biệt tại Cần Thơ, xuất hiện khá sớm (1992) và duy trì đến hôm nay. Khi hỏi về nguyên do lò vẽ ra đời anh Bảo vui vẻ : Có nhiều khách hàng đến vẽ áo, cảm nhận nét vẽ trên áo vừa đẹp, màu sắc phù hợp từng loại vải, màu vải, đường nét mềm mại, uyển chuyễn, thẩm mỹ, mang tính nghệ thuật nên họ đam mê xin theo học, có người giới thiệu bà con đến học.

Lớp học vẽ tranh trên áo của Hùng Bảo phần đông là chị em phụ nữ và một số ít nam giới. Thường một khoá học của anh người nhanh nhất là 4 tháng người chậm có khi 1 năm. Qua 15 năm đào tạo, học trò anh có người mở tiệm, có người về quê làm và nối nghiệp dạy vẽ tranh trên áo như anh. Để có thành công nhất định trong ngày hôm nay, đôi mắt Hùng Bảo nhìn về phía xa bồi hồi kể lại:
Cách đây 35 năm (1971) trong lúc đứng chơi gần cột điện, dòng điện cao thế giật và hủy hoại thân thể của tôi. Tại nạn hiểm nghèo đã làm mất 2 cánh tay và một chân.

Từ đó tôi trở thành đứa trẻ tật nguyền, ngày ngày đôi mắt khao khát nhìn những bạn bè trang lứa đi học. Cơ may trong đời đến với tôi, một bác sĩ chuyên khoa tận tình giúp đỡ, thiết kế chiếc chân giả để tôi tiện bề đi lại một mình, đồng thời nghiên cứu thiết kế một tay giả bằng kim loại tự sử dụng và hoạt động như các ngón tay bình thường, từ đó tôi làm được nhiều việc thông dụng.

Năm 1976, đời học sinh trở lại với anh, anh luôn cố gắng vươn lên trước hoàn cảnh khó khăn nghiệt ngã, anh miêt mài rèn luyện mọi công việc bằng cánh tay giả. Trời không phụ kẻ có chí, sự kiên trì, cần mẫn của anh được đáp đền. Năm 1983, anh đã tốt nghiệp phổ thông trung học. Con đường đi vào đại học quá xa với đối với người khuyết tật như anh. Sau nhiều lần suy nghĩ, anh tìm cho mình một tương lai là đi học “vẽ chân dung” để có một nghề nuôi lấy bản thân. Với lòng đam mê, ý chí quyết tâm và sự tận tâm của các thầy nên không bao lâu anh đã họa được nhiều bức chân dung trước sự trầm trồ của bạn bè. Từ đó, Hùng Bảo nắm vững các nguyên tắc về vẽ chân dung, về kỹ thuật pha màu. Anh đã mạnh dạn mở cơ sở vẽ chân dung. Qua 7 năm hành nghề vẽ anh nhận xét: Nghề vẽ chân dung vất vả, thu nhập không bao nhiêu, hướng đi của nghề không phát triển.

Thế là không ngại gian khó để tìm hướng đi mới cho mình. Năm 1990, anh đi học vẽ áo dài, một loại hình nghệ thuật mang tính sáng tạo và thời trang. Thời gian đi học đối với anh rất trở ngại và khó khăn. Quá trình học chỉ biết nghe và nhìn, về nhà mới mày mò vẽ thực hành, ngày mai đem lại thầy sửa, những mẫu vẽ nhiều lần thất bại, phải vẽ đi vẽ lại. Nhờ lòng kiên trì, ý chí quyết tâm, cuối cùng anh cũng đạt theo ý muốn của mình.


Là một người chịu khó học hỏi, anh đã thể hiện những tranh vẽ trên áo, trên lụa có hồn riêng, thể hiện tài hoa của người vẽ. Và kết quả Hùng Bảo đã dùng cây cọ qua bàn tay giả làm cầu nối với khách hàng trong cũng như ngoài nước.

Đa số hàng vẽ của Hùng Bảo thường là khách hàng đến đặt, thợ may đem lại, Việt Kiều…
Trong những năm tháng dạy vẽ cho học trò của mình, Hùng Bảo luôn tận tâm chỉ dạy vì anh anh luôn nghĩ học trò của mình là đứa con tinh thần. Ngoài ra với lòng nhân ái, Hùng Bảo thường giúp đỡ, dạy cho các em có hoàn cảnh nghiệt ngã có được tay nghề và còn tìm công ăn việc làm cho các em.

Huỳnh Thị Tố Quyên 19 tuổi ở Châu Đốc đến học nghề 1 năm thố lộ: Ba em mất lúc em còn nhỏ, mẹ đi làm xa, ở với cô nghèo khó. Thầy Bảo dạy giúp trong hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, thầy còn nhận em làm việc để có công ăn việc làm nuôi thân.

Để phát triển nghề nghiệp, Hùng Bảo luôn trau dồi nghề nghiệp, nghiên cứu, sưu tầm báo ảnh, tìm những mẫu vẽ trên cataloque mà người mẫu thời trang thường sử dụng vì nghề vẽ là một thế giới nghệ thuật.

Trên căn nhà bình dị ở đường Đề Thám ( Ninh Kiều, Cần Thơ) Trần Hùng Bảo với đôi tay, một chân không còn nguyên vẹn, vươn lên những nghiệt ngã đói nghèo chung sống hạnh phúc bên người vợ và 2 con thân yêu, Hùng Bảo còn truyền nghề góp phần ươm mầm nghệ thuật cho đàn em thân yêu .

Thứ Ba, 16 tháng 10, 2007

Khát vọng sống của một số phận khổ đau


Số 91/31 đường 30 tháng 4, phường Hưng Lợi (TP Cần Thơ) là nhà cô Chủ nhiệm Bùi Thị Hồng Nga kiêm văn phòng liên lạc của CLB Khuyết tật tỉnh Cần Thơ. Căn phòng riêng êm ả, cô Phan Thị Lượm ngồi thêu trên chiếc xe lăn. Mỗi khi tác phẩm hoàn thiện, cô luôn được mọi người trầm trồ khen ngợi. Cô cho biết: “Được ngồi thêu nơi đây, tâm hồn thanh thản là điều hạnh phúc diệu kỳ với em”. Cô tâm sự, giọng nhỏ nhẹ nhưng tôi bàng hoàng nhận ra trước mắt mình là một số phận kỳ lạ, đầy đau khổ bầm dập, mãnh liệt khát vọng vươn lên.


Lượm kể: “Tôi là đứa con thứ 7 trong gia đình 7 anh chị em. Lúc lên năm tuổi, cơn sốt bại liệt quái ác làm cho đôi chân tàn phế, phải lết chứ không đi bằng tó được và cũng từ đó tôi là đứa con kém may mắn trong gia đình. Việc đi lại quá khó khăn, năm 11 tuổi học đến lớp 2, tôi nghỉ học”.
Những ngày tháng nằm ở nhà, cảm giác của người vô dụng, ăn bám hành hạ cô. Lượm muốn xin đi học một nghề nào đó, nhưng gia đình nghĩ Lượm chẳng làm được việc gì. 16 tuổi, cô đi học nghề thêu. Một lòng quyết tâm học hỏi, với sự thông minh vốn có, chỉ 10 ngày cô tự thêu được. Hàng cô nhận thêu đạt kết quả tốt. Qua thời gian 5 tháng trong nghề thêu, cô quyết sống tự lập nên bỏ nhà ra đi.


Lượm lên TP Hồ Chí Minh xa lạ. Đơn độc, đói cơm khát uống, cô ngồi bên lề đường ôm mặt khóc. Đến chiều tối, có một người đàn ông đến hỏi thăm. Ông tên là Phan Bá Vinh – Phó giám đốc xưởng thêu xuất khẩu mặt hàng trắng cho Hà Nội. Biết cô gái tật nguyền biết thêu, ông cho về nhà ở, nhận làm con nuôi và cho cô đi làm.


Ăn ở tại nhà cha nuôi và đi làm nghề thêu được hai năm. Cha nuôi được vợ bảo lãnh đi Úc. Khi đi, ông chia gia tài lại cho em trai ông 5 phòng, chia cho Lượm 1 phòng ở quận Tân Bình. Người em trai của ông cha nuôi tìm mọi cách gây khó khăn. Biết không thể ở, Lượm trả lại căn phòng ra đi.
18 tuổi Lượm trở lại gia đình, theo cha lên Trung tâm chỉnh hình mổ đôi chân. Nằm chữ trị một năm, hai chân mổ 4 lần nhưng vẫn không đi lại được và càng ngày càng teo nhỏ lại.


21 tuổi, Lượm lại làm một cuộc ra đi mới để mưu sinh. Lần này cô ra đảo Phú Quốc với ý định nương nhờ người cậu. Nhưng ra đến đảo Lượm rất thất vọng vì không như ý nghĩ ban đầu, đành quay lại bến tàu trở về đất liền. Ở đây Lượm gặp chị Nữ, hai người tâm sự. Chị Nữ đã mời Lượm ra nhà chị ở Hòn Mây Rút (tỉnh Kiên Giang) thăm cho biết.


Mặc dù thâm tâm rất lo sợ, nhưng Lượm cũng đánh bạo theo chị Nữ để tìm cuộc sống. Hòn đảo nhỏ chỉ có mười mấy gia đình sinh sống, xung quanh bốn bề là biển cả mênh mông. Đời sống của họ êm đềm, ngư dân hiền lành, chất phác và họ mù chữ.


Lượm được gia đình chồng của chị Nữ là ông Châu Văn Bi cảm thông và thương mến, nhận làm con nuôi trong gia đình 9 người con trai. Công việc của Lượm là làm sao truyền bá cái chữ cho bà con trên hòn. Tuy học chỉ đến lớp hai, vậy mà chưa đầy bốn tháng đốt đèn dạy học, bà con trên hòn biết đọc, biết viết. Họ đã tổ chức buổi tiệc ăn mừng thoát “dốt”.


Ở đó, Lượm rất được mọi người tin yêu, giúp đỡ. Có một điều làm Lượm buồn là người anh nuôi thứ sáu hay đùa giỡn với tật nguyền của cô, chạm vào vết thương sâu kín trong lòng cô, không chịu nổi, cô lại buồn khổ ra đi.


Lượm nhớ lại: “Những thua thiệt, chán chường đè nặng trong tôi. Bỗng tôi nhớ đến cô bạn gái cùng số phận tật nguyền ở Campuchia, đã điều trị cùng tôi ở Trung tâm chỉnh hình Cần Thơ. Thế là tôi sang Campuchia tìm cô, gặp được cô bạn Phạm Thị Mỹ Thu, mừng quá tôi khóc như con nít”.
Cuộc sống mới của Lượm lại bắt đầu. Ngày ngày cô bán thuốc hút, được bà con thương cảm, thuốc lá bán rất chạy. Trong số khách hàng quen thân, có anh Lê Thành Hùng là người thường hay lui tới thăm hỏi. Hoàn cảnh xa quê, không họ hàng thân thích, nên tình cảm trai gái dễ xích lại gần nhau. Cô cũng biết đôi chân cô teo rút, ngồi lết đi như vịt đẹt, vậy mà mỗi lần gặp anh là tim cô rung lên, cái rung cảm của người con gái làm cô lo sợ. Anh cứ ân cần chăm sóc, thăm hỏi. Cô ấm lòng, được che chở. Dần dần cô xem anh như một phần cuộc sống của cô.


Một ngày, điều cô mơ ước nhưng không dám chờ đợi đã đến. Đó là lời cầu hôn của anh. Phía anh có người anh ruột, phía cô có cha đẻ. Hai người nên vợ nên chồng trên đất người.
Chung sống được tám tháng, cái thai trong bụng Lượm lớn lên. Cô hạnh phúc nhưng thật vất vả. Hai chân như hai khúc mía đong đưa, cái bụng phình tròn, mặt mày xanh xao, hốc hác. Mỗi lần sờ vào bụng, ôi cái sinh linh bé nhỏ, một phần máu huyết của cô sắp sửa chào đời, cô quên hết tật nguyền.


Thế rồi một hôm, chồng cô nhậu say về, anh chỉ vào cô nói: “Cô lo nuôi con chứ tôi đi vượt biên à!”. Anh nói như đùa cợt, thách thức, còn cô đứt từng khúc ruột. Linh tính mách rằng, chồng cô không đùa.


Con tàu đưa anh đi đúng như lời anh nói. Lượm làm sao giữ được anh, ngay cả đôi chân của mình cũng không điều khiển nổi, huống là… Cổ họng cô mặn đắng, đưa tay áp lên bụng, ngồi khóc nức nở. Lượm hiểu rõ rằng, bắt đầu từ hôm đó sự nghiệt ngã tật nguyền trở lại với cô nặng nề, khủng khiếp hơn.


Lượm không đủ can đảm ở lại Campuchia. Hành trang trở về là cái bụng bầu và hai cái đòn ngồi lết. Cô đến thành phố Hồ Chí Minh ở chờ ngày sinh nở tại BV Từ Dũ. Đến ngày sinh, cô phải lên bàn mổ để đưa cháu bé ra, xung quanh cô không một người thân thích. Cô làm tròn nhiệm vụ của người mẹ với bao hiểm nguy và cô đặt tên cho con gái là Phan Thị Hoài Hận, sinh ngày 16/5 Giáp Tý 1984.


Mẹ con Lượm sống ở bệnh viện nhờ vào tình thương của mọi người xung quanh. Khi sinh được một tháng, sức khỏe có phần hồi phục, cô gởi con lại cho bà đỡ, để về quê nhờ mẹ lên ẵm con về. Nhưng về đến quê cô lại bị bệnh, hai tháng sau mới quay trở lại, bà đỡ và con đã biến mất. Bệnh án cũng không tìm được. Vậy là cô mất con.


“Chồng ra đi tôi không giữ được đã đành, con tôi là máu thịt của tôi, tôi cũng không bảo vệ nổi – Lượm chùi nước mắt nhớ lại – Tinh thần của tôi hoảng loạn tột cùng, ý thức mất còn không có ý nghĩa. Qua nhiều ngày lê lết tấm thân tàn tìm con, hy vọng mong manh gặp con tan biến. Tết Trung thu năm 1985, tại căn nhà trọ ở TP Hồ Chí Minh tôi đã uống rất nhiều thuốc ngủ để vĩnh biệt cõi đời. Khi tỉnh dậy, mọi người cho biết tôi đã được súc ruột và nằm phòng lạnh 8 ngày mới tỉnh. Cuộc đời của tôi là bệnh tật, là đổ vỡ, là biệt ly. Khi nhìn con nít nhà ai là lòng tôi quặn thắt và một lần nữa tôi lại uống thuốc để kết liễu đời mình tại công viên bến Ninh Kiều (Cần Thơ). Nhưng hình như tôi còn nợ trần gian quá nhiều nên tôi lại được cứu”.


Lượm quay lên lại TP Hồ Chí Minh, cố gắng kiếm việc làm và có thời gian tìm con. Trong thời gian xin việc, cô bán tất cả thứ gì bán được để mua cơm ăn sống qua ngày. May mắn cho cô, có người chỉ cho công ty thêu hàng Kimono Đài Loan tại đường Trần Phú (Quận 5) đang tuyển thợ thêu. Cô đến thi tay nghề, đạt loại giỏi và làm việc tại đó.


Thêu được 5 năm, con mắt bên phải bỗng nhiên nhìn không rõ, cô đi chữa trị, công ty đài thọ cho 5 tháng lương. Kết quả bệnh án là cô không còn đủ sức khỏe để tiếp tục làm việc. Trong thời gian này, chồng cô có gởi thư hỏi thăm đứa con. Cô trả lời đứa con bị thất lạc, từ đó không còn tin tức chồng nữa.


Những tháng ngày sau này, bệnh tật vẫn luôn hành hạ thân cô.


Một lần mổ ruột thừa, hai lần mổ bướu độc ở ngực (Viện Pasteur xét nghiệm cho biết). Cơ thể còm cõi của cô tính đến nay đã qua 8 lần mổ và sau này cô thường có bệnh nhức đầu. Nhưng cô vẫn xuôi ngược đi làm tự nuôi thân.


Năm 42 tuổi, Lượm tìm đến CLB Khuyết tật tỉnh Cần Thơ. Ở đây Lượm đã gặp được chị Bùi Thị Hồng Nga – chủ nhiệm CLB – với khuôn mặt hiền hậu, nhã nhặn. Chị đã mở ra một thế giới cho những người không may mắn như Lượm tìm thấy viễn ảnh cuộc sống tươi sáng. Lượm nói: “Chị đã cho tôi biết thế nào là cuộc sống có ý nghĩa. CLB Khuyết tật là cơ sở cho tôi bám víu, chính nó đã vực dậy, đã dập tắt tình trạng hoảng loạn trong tôi cùng với những mảnh đời kém may mắn vươn lên”.


Lượm dừng lời. Khuôn mặt tái xanh, vẻ cam chịu đưa cô chìm đắm sâu vào cõi mông lung cùng ánh mắt nhẫn nhục nhìn xa xăm. Lượm kể về đời cô mà tôi ngỡ như nghe được bao số phận. Tôi hiểu thêm sự khủng khiếp của tật nguyền, nghị lực vươn lên quyết liệt của Lượm, của tình yêu cuộc sống. Tôi nghĩ về 43 thành viên của CLB Khuyết tật Cần Thơ đang chung sống yêu thương, đùm bọc nhau, họ thật yếu ớt mà thật mạnh mẽ.


Mơ ước hôm nay của Lượm là gì? Có 2 mơ ước: Tìm được đứa con và một chiếc xe lăn lắc tay để có thể di chuyển dễ dàng.

Gà trống "mù" nuôi con

“ Mù như tôi lấy được vợ mắt sáng thật là diễm phúc. Tôi không từ nan một việc gì để kiếm tiền nuôi vợ con. Vậy mà tôi và hai con tôi không giữ nổi chân của người đàn bà vô tâm”. Lời tâm sự miễn cưỡng của người đàn ông không muốn ai biết hoàn cảnh hẩm hiu của mình qua mười chín năm nhọc nhằn làm thân “ gà trống mù” nuôi con.


Cha mẹ đặt tên cho anh thật đúng Nguyễn văn Hiền, hiền như cục đất, 47 tuổi ở ấp Long Thạnh 2, xã Long Phú ( Long Mỹ, Hậu Giang) hai mắt mù do di chứng của bệnh từ nhỏ. Anh nhớ vanh vách nỗi đau đớn của mình, vợ bỏ đi tám lần. Lần thứ tám là lần cuối cùng người đàn bà ấy không quay lại cùng cha con anh nữa mà ở với người đàn ông khác ở xã Thuạn Hưng, Long Mỹ.

Với dáng người nhỏ con, cam chịu lại xuề xoà, nhớ lại những lúc vợ chồng chung sống cho đến lúc bỏ đi anh tâm sự :“ Tháng 11/1986, bà con đến chung vui đám cưới và chúc tụng vợ chồng chúng tôi trăm năm hạnh phúc. Vợ tôi mắt sáng như mọi người, tôi sống thật hạnh phúc, luôn tất bật với công việc để gầy dựng, vun bồi mái ấm.


Mùa khô tôi đi mò cá, ngày nào cũng kiếm được cá bán, bà con ai cũng cho tôi có tay “ sát ngư ”. Mùa mưa ngồi vót nan đan lợp, vót cần câu cắm bán. Ngoài ra, tôi còn làm thêm các việc linh tinh bằng sức lao đọng miễn có tiền thu nhập. Cuộc sống chẳng giàu có gì, nhưng gia đình sống êm ấm hạnh phúc. Năm sau, đứa con gái đầu lòng ra đời, tôi rất sung sướng mình đã được làm cha. Để bù đắp, san sẽ những đau đớn, khổ cực của vợ, tôi làm việc không kể ngày đêm, một, hai giờ khuya là chuyện thường, mong sao có tiền bồi dưỡng cho mẹ, mua sữa cho con. Khi đứa con gái 11 tháng tuổi, niềm vui chưa được bao ngày, vợ tôi đòi đoạn bỏ nhà, bỏ con ra đi khi con tôi rất cần sữa mẹ, cần đôi tay ôm ấp , còn để lại nợ nần vay mượn. Chạy gạo, chạy sữa lúc đó thật gian nan. Cũng may xóm giềng bà con đầy lòng ưu ái, động viên. Ai cũng bảo con tôi ngộ nghĩnh, dễ thương.

Trách nhiệm người cha không cho phép tôi ngã gục. Có những đêm dài nghe con lăn lộn, vật vã trong cơn bệnh, là đàn ông thì phải cứng rắn, nhưng tôi không thể không khóc được, tôi cố gắng làm xuyên suốt, lấy công việc để xoá tan đớn đau, phiền muộn. Trong 6 tháng tôi vót được 8000 cần câu cắm và đan 100 cái lờ bán được 5 triệu đủ cơm rau cho cha con và trả nợ cho vợ tôi. Ba năm sau vợ tôi lại trở về, con tôi có được niềm vui bên mẹ, căn nhà cũng vơi đi phần quạnh quẽ.

Tôi quên hết mọi lỗi lầm cùng nhau chung sức nuôi con. Tôi quần quật làm, vợ tôi quần quật xài đồng tiền cực khổ của tôi, khi sinh được đứa con trai còn đỏ hỏn thì vợ tôi lại bỏ ra đi. Lần ra đi này tôi quá hụt hẫng, tinh thần hoảng loạn tột cùng. Ngỡ như ngã quỵ trước nghiệt ngã đớn đau mà không vực dậy nổi. Là đàn ông mà bảo có thể chết đi được chẳng ai tin nhưng sự thật là thế. Vùng quê sâu nghèo khó như ở đây ! Một người mù ôm hai con thơ như tôi, phải tìm đường đi nào nuôi hai con đến đích, nên người. Những chiếc nan lờ, cần câu tôi vót đều thấm vị mặn. Những con kinh, con rạch nơi tôi mò cá có nước mắt chan hoà. Có phải vì thâm tình trĩu nặng mà những chiếc hom lờ, cần câu tôi làm bán ra đặt cá rất chạy, ai cũng đặt làm. Lòng tôi tự dặn lòng, dẫu là gian khó, đau thương vẫn tâm nguyện nuôi con thành người .

Tôi vẫn sống trong tình trạng vợ bỏ nhà đi mãi, cố gắng làm có tiền chút đỉnh để dành phòng khi con đau ốm. Bà ấy xuất hiện, vì con tôi lại uỷ mị, khoan dung và bà ta lại tiêu xài, có khi lấy tiền rồi lại bỏ đi. Tôi vật vả như con thuyền giữa biển, hứng chịu từ đợt sóng này đến đợt khác.

Nói ra các anh đừng cười, đứa con gái lớn năm nay 19 tuổi đứa con trai 15 tuổi nhưng bà sống với cha con tôi chưa đầy ba năm. Chỉ một lần bà ra đi một tháng mười lăm ngày rồi trở về, còn những lần khác từ một năm đến bốn năm.

Anh Phạm Văn Sơn Chi hội phó Hội Người Mù Long Mỹ nhận xét : “Anh Hiền là người đàn ông chí thú làm ăn, mặc dù vợ bỏ cha con anh đi hoài, anh vẫn vươn lên trước những khó khăn nghiệt ngã để nuôi hai cháu khôn lớn”. Cháu Nguyễn Thị Nhi học hết lớp 8 thì ở nhà mấy năm nay để lo gia đình, cháu Nguyễn Văn Thương học lớp 8. Ở vùng quê nghèo làm ra tiền không phải dễ, người sáng mắt còn khổ huống chi là người mù”.

Thỉnh thoảng anh lại thở dài, thấy vậy chúng tôi hỏi : “ Anh lo cho hai cháu đầy đủ, còn riêng anh”
- Nhiều lúc thấy gia đình cô đơn, lạnh lẽo, tôi buồn lắm nhưng không dám nghĩ gì. Vả lại mười mấy năm trôi qua, mọi chuyện cũng nguôi ngoai dần, bây giờ con tôi đã lớn. Con gái lo việc gia đình, con trai đi học về cùng tôi mò cá, vót câu. Nhờ trời, chúng nó ngoan hiền, không như mẹ nó, chúng thương lo cho tôi, vậy cũng đã hạnh phúc lắm rồi. Bây giờ chúng nó hiểu được những khó khăn và sự hy sinh của tôi đối với chúng.

Nói đến đây, anh Hiền ngồi lặng yên, trong đôi mắt thẳm sâu tăm tối, đã chứa đựng một ý chí mạnh mẽ, vươn lên vượt qua bao nghiệt ngã. Bây giờ anh sống thanh thản cùng hai con hiếu thảo, chúng luôn săn sóc, lo lắng cho anh, cho người cha đáng kính, hy sinh cả cuộc đời để tạo chúng nên người. Thật đáng trân trọng.

Thứ Hai, 15 tháng 10, 2007

Cổ tích đời khuyết tật

Chu Thị Hương nằm đó đã 33 năm sau một cơn sốt bị liệt tay chân, mông trái cũng
lép hẳn lúc mới 7 tuổi đương học lớp 2 ở ấp Nam Hải, xã Đại Hải (Kế Sách, Sóc
Trăng). Cơ thể Hương như còn bé, khuôn mặt khả ái hiện lên nét đẹp dịu dàng
thông minh. 33 năm, mọi sinh hoạt cá nhân hằng ngày nhờ cậy người chị ruột Chu
Thị Hường 44 tuổi và câu chuyện của chúng tôi cũng bắt đầu bên giường bệnh




Giọng nói đặc biệt dịu dàng, Hương tâm sự: “Chị Hường là người mẹ và cũng là người bạn thân thiết nhất đời em. Chị dạy em quên đi cảnh đời đau buồn câm lặng, dạy em kiên nhẫn đừng để đau đớn, khó khăn đánh gục mình, tạo cho em hy vọng để sống. Chị Hường là điểm tựa cho em níu kéo trong số phận nghiệt ngã”.
Dòng nước mắt nóng hổi tuôn dài trên má. Lúc sau, giọng Hương chậm và buồn: “Thương lo cho em mà chị chẳng chịu lấy chồng. Hồi đó em hay khóc lắm, một chút đau đớn, lo sợ là em đã tựa đầu vào bắp vế chị mà khóc và chị cũng cúi xuống khóc cùng em. Từ đó chị sống như chiếc bóng, quên đi đời thanh xuân tươi đẹp, mặc dù chị rất yêu anh ấy. Để em đọc mấy câu thơ người ta tặng cho em:

Nửa đời qua như em là hư ảo
Nước mắt khô - Thương chị đã lỡ làng
Nhớ chị - đôi lúc anh thường qua ngõ.
Thương thân em - Rượu đổ chẳng lấy chồng.

Tôi nhìn quanh căn phòng chật hẹp chỉ đủ kê chiếcgiường và đặt chiếc quạt đứng. Cô Hường ngồi chằm nón ở bên ngoài. Chu Thị Hường năm nay đã 44 tuổi nhưng đôi mắt, nụ cười còn ánh nét đẹp một thời và vẫn dịu dàng e ấp. Khi em bại liệt, Hường bỏ dở lớp 11 (1976) để ở nhà săn sóc, chạy chữa bệnh cho em. Hường kể:

- Em Hương bị bệnh, ai bảo ở đâu có thầy giỏi là cha tôi cùng tôi lại đưa Hương đến. Nằm ở bệnh viện Nhi đồng 2 hơn nửa tháng thì bác sĩ cho xuất viện vì không hy vọng bình phục. Tôi lại ẵm em tôi lên đại chủng viện Long Xuyên nhờ các cha trong họ đạo châm cứu. Nhớ lại thời bao cấp, hai chị em nằm ở bến xe hai ngày mới mua được vé xe đi Long Xuyên, xe chạy chưa đến bến đã đổ khách, mọi người đều vội đi, hai chị em bơ vơ, ngồi ôm nhau mà khóc. Đến nơi, được cha trong đại chủng viện châm cứu là mừng lắm rồi, mỗi tối cha dạy phải ẵm em đi dạo cho em thư giãn hơn nửa tiếng đồng hồ. Thế nhưng bệnh vẫn không lành.

Tôi nhìn chiếc nón chằm dở trên tay Hường, cô hiểu ý liền nói:

- Nhờ nghề chằm nón mà 25 năm qua, tôi không phải đi xa, vừa làm vừa săn sóc được cho em, ngày chằm được 1 cái bán 10.000 đồng, chị em chắt chiu dưa muối sống qua ngày.

Ông Chu Xuân Châm, 69 tuổi, nhìn hai cô con gái rồi nói:

- Cháu Hường thì cần mẫn, chịu khó suốt ngày ngồi chằm nón trông em, còn cháu Hương tật nguyền nhưng lại thông minh, sáng dạ, mọi công việc nhà cháu Hương nằm tính toán, sắp xếp công chuyện đâu vào đó. Hai chị em nó không rời nhau nửa bước, con chị hy sinh cho em, thỉnh thoảng người quen cũ lại thăm, tôi cũng đau lòng.

Ông Chậm nhắc đến chuyện tình của cô Hường khiến cô đỏ mặt lên vì e thẹn. Tôi gợi chuyện một lúc lâu, cô mới chậm rãi cho biết:

- Một ngày đầu đông cách đây 15 năm, tôi là đoàn viên đi làm công tác xã hội tại nhà thờ Trà Canh (Sóc Trăng). Lúc làm cỏ và dọn trong khuôn viên nhà thờ, chẳng may viên đá rớt đè chân tôi làm chảy máu, một thanh niên ở nhà kế bên chạy sang giúp đỡ rửa vết thương rồi băng bó cho tôi. Chúng tôi quen nhau từ đó. Anh ta là Đặng Quốc Tuấn, họa sĩ vẽ chân dung, quảng cáo, nhỏ hơn tôi 2 tuổi. Sau đó, anh thường lui tới thăm viếng gia đình và an ủi đứa em gái tật nguyền của tôi. Anh Tuấn dáng vẻ phong trần, quê ở Huế nhưng theo mẹ cùng hai em vào đây sinh sống. Cuộc sống gia đình trông cậy vào bàn tay tài hoa của anh, cũng nhờ anh vui vẻ nên có hàng vẽ hoài, mặc dù Trà Canh là nơi ít dân, đời sống người dân còn thấp. Tôi và anh đều nặng gánh bổn phận và vì lẽ đó mà tình yêu đến với chúng tôi thật sâu nặng mà cũng thật buồn. Anh thường đến nhà thăm chị em tôi vào buổi tối, lúc thì đem sách hoặc báo Tiền Phong, Công An cho chị em tôi đọc, có lúc anh tặng cho chị em tôi những bức tranh anh vẽ. Anh tặng cho tôi bức tranh có tựa đề “Nở muộn”, vẽ người con gái một tay đẩy xe lăn có người ngồi trên xe, tay kia cầm nụ hoa hồng chưa nở.

Mỗi bận Tuấn đến thăm chuyện trò chốc lát vì cửa nhà chật chội, nhưng ánh mắt họ đã nói hộ bao điều muốn nói. Cũng một đôi lần họ đưa nhau đi quán giải khát trong xóm ngồi tâm sự. Tình yêu của họ rất chân thành nhưng khó khăn trước mắt họ lại quá lớn, đó là bệnh tật của Hương và mẹ già cũng đau yếu quanh năm rất cần bàn tay chăm sóc giúp đỡ của cô. Lễ giáng sinh năm 1997, tại nhà thờ Đại Ngãi, hai người được phân công làm chung máng cỏ và hang đá. Dịp đó, Hường đã hứa với anh: “Bệnh của Hương nếu đỡ thì em sẽ về với anh”.

Nhưng bệnh của Hương lại ngày một có chiều hướng xấu hơn, những cơn mệt và khó thở ngày càng nhiều. Mười năm trôi qua, biết bao nhiêu đổi thay mưa nắng. Hôm nay, Hường vẫn không giấu được nỗi lo lắng:

- Hai năm nay em tôi thường nhức đầu và không ngủ được, nhìn hai mắt em thâm quầng thật đau lòng. Thấy em như vậy tôi lo sợ ngày nào đó Hương ra đi, tôi thật không đành lòng rời xa em.

Cô Hương đang nằm, ngẩng đầu lên nói:

- Mỗi mùa giáng sinh anh Tuấn đều lại thăm, nhưng năm nay anh không ghé nữa. Tính anh Tuấn cũng hay so sánh, trước đây tụi em ở nhà lá ngoài đường lộ thì anh lên thăm hoài, từ hôm anh Hai của em mượn căn nhà lá để bán vật liệu xây dựng, giao nhà của anh Hai cho tụi em ở, anh Tuấn lên thăm, thấy nhà cao cửa rộng, hình như anh ngại, thi thoảng anh mới ghé.

Cô Hường cúi xuống nói nhỏ: “Anh vẫn chưa chịu lấy vợ”.

Hương nói tiếp với tôi:

- Gần hết đời con gái chị lo cho em rồi, việc chị không lập gia đình, đối với em là nỗi day dứt không nguôi được. Anh biết không, trong các bài hát em thích và thương bài “Chị tôi” của chú Trần Tiến. Mỗi lần nghe hát đến đoạn… chị tôi chưa lấy chồng… là em lại khóc. Nhưng giục chị thì chị không chịu, em không còn biết làm thế nào.

Tôi ngước nhìn Hường, nụ cười buồn điểm dấu chân chim trên khóe mắt, tóc cô đã ánh vài sợi bạc.

Tôi nhìn ra mảnh sân trước nhà. Cây mai ở góc sân đã hé nụ. Nắng Xuân ấm đang về. Xuân về nơi đây không lỗi hẹn và tôi thầm ước Xuân sẽ còn kéo dài.

Người đàn bà cụt tay gặt lúa mướn

Sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo, làm thuê, gặt mướn lúc lên mười, chị đã mất
đi nửa cánh tay vì cơm áo. Với nửa cánh tay còn lại, người đàn bà ấy vẫn kiên
trì vung lưỡi hái trên những cánh đồng.



Mùa lúa chín, chúng tôi bao ghe từ Long Thạnh đến ấp Đông Phú (Đông Phước, Châu Thành A, Cần Thơ) để tìm gặp người thợ gặt lúa bằng cùi chỏ. Với nụ cười hiền lành trên khuôn mặt đen nhẻm vì nắng gió, chị Nguyễn Thị Bảy Nhỏ đứng giữa ruộng đang gặt dở kể:

- Năm nay tôi 31 tuổi, nhà nghèo không đất sản xuất nên phải làm thuê, gặt mướn đã 22 năm nay. Dù rất cực nhọc, nhưng tôi vẫn cam chịu để kiếm cơm sống qua ngày.

- Chị gặt một tay như thế đạt được năng suất bao nhiêu?

- Lúc mới tập thì thua xa những người lành lặn nhưng bây giờ tôi làm bằng đến hơn họ. Mỗi ngày tôi gặt và vác được 1 công, tiền 30.000 đồng.

Chị kể về cuộc đời mình:

- Năm 17 tuổi, tôi đi làm thuê cho lò đường ở Kinh Cùng (Cần Thơ) mặc áo tay dài, vô ý đút mía vào ép, áo bị máy cuốn vào nghiến đứt cánh tay, nằm nhà thương điều trị 3 tháng. Suốt mấy năm sau đó, nhìn anh chị em gặt lúa mướn, tôi nghĩ phận mình mà chảy nước mắt. Đứa cháu Bích Tuyền 12 tuổi bảo tôi: “Bảy ơi! Bảy lấy bao tay buộc rồi cột lưỡi hái, ra ruộng gặt thử được hôn?”.

Từ đó tôi tập gặt lúa.

Chị vén áo lên, thật bàng hoàng xúc động khi nhìn thấy dấu vết trầy trụa, lở lói do xiết cột lưỡi hái đã chai lì trên cánh tay cụt của chị.

Cuộc đời gặt mướn như con vịt nuôi chạy đồng, nơi nào lúa chín thì tìm đến. Tháng 2 tháng 3 chị ở Châu Đốc, Ô Môn, tháng 7 tháng 8 chị ở Bạc Liêu, Sóc Trăng… Giọng buồn buồn, chị nói: “Nghề này với phụ nữ rất khổ, mùa lũ ngâm mình trong nước bùn, ruộng lúa khép kín trong đê bao còn giữ thuốc trừ sâu, phân bón, hóa chất, tụi tui là những người hứng chịu. Nhiều chị sau vài ngày gặt lúa phải tìm đến bác sĩ phụ khoa, tay chân lở lói là chuyện thường”.

Chị Bảy Nhỏ có chồng và một con. Chồng chị không được khôn ngoan, suốt năm đi ở mướn cho người ta, mỗi năm anh được trả công 1,4 triệu đồng lấy tiền trước. Gia đình khó khăn, chị quanh năm đi gặt hết đồng này đến đồng khác, đứa con gái 8 tuổi chị gửi cho bà nội.

Chị gượng vui nói với chúng tôi: “Cực khổ, vất vả quen rồi, vắng một vài ngày không làm thấy bứt rứt, khó chịu”.

Nhọc nhằn, gian khó trăm bề, người phụ nữ gặt thuê một tay vẫn cần mẫn, miệt mài lao động. Cuộc sống dù thiếu hụt mọi điều, chị Bảy Nhỏ vẫn lạc quan, vượt lên mọi nghiệt ngã tật nguyền, tự tìm niềm vui trong cuộc sống.

Thứ Bảy, 13 tháng 10, 2007

Cô gái viết bằng chân



Ở ấp 7 xã Xà Phiên (Long Mỹ – Cần Thơ) có một cô gái mang nỗi bất hạnh từ lúc mới chào đời. Cả hai tay, hai chân đều bị dị tật, chỉ có mấy ngón chân là còn cử động được. Vin vào những ngón chân nhỏ bé và yếu ớt đó, cô tập viết, tập bơi xuồng để tự mình đến trường, tự tìm cho mình một tương lai bằng con đường học vấn. Trong căn nhà tranh thấp lè tè nằm trên khoảnh đất bao bọc xung quanh là một biển nước. Cô bé khuyết tật đi bằng đầu gối ra đón chúng tôi…

Nhìn vào cơ thể thấp bé của Sậm, không ai có thể nghĩ rằng cô đã 25 tuổi. Huỳnh Thị Sậm sinh năm 1977, là con thứ tư trong một gia đình có sáu chị em gái. Sậm mang dị tật từ lúc mở mắt chào đời, hai chân bị liệt, co quắp, chỉ cử động được mấy ngón, còn hai tay thì hầu như không làm được gì. Sậm di chuyển bằng một đầu gối chung với bàn chân. Ba em mất năm em 14 tuổi sau nhiều ngày chữa trị bệnh lớn tim, để lại gánh nặng cho người mẹ yếu đuối, tần tảo nuôi 6 chị em. Năm 15 tuổi Sậm mới bắt đầu đi học. Sậm bộc bạch: “Em đi học chỉ mong biết chữ để đọc. Cơ thể tật nguyền mọi công việc đều nhờ vào thầy, cô, bạn bè. Khi em biết đọc thì tình cảm thầy cô, bạn bè ăn sâu vào tâm khảm, cuộc sống em như gắn liền với thầy, bạn”.



Muốn tiếp tục đi học Sậm phải luyện tập ý chí của mình, thầm lặng nhưng gay go và quyết liệt. Sậm kiên trì, miệt mài tập viết bằng nhiều cách, các ngón chân trái kẹp cây viết cùng với các ngón chân phải đè trên quyển tập, Sậm tập viết riết cũng thành công. Viết được, em mừng lắm nhưng gia đình quá nghèo, mẹ và chị không có thời gian cõng em đi học. Một lần nữa Sậm lại khắc phục bản thân, tập bơi xuồng bằng chân. Sậm để cây dầm lên đầu gối làm điểm tựa, từ từ em bơi được, nhưng không nhanh.

Trước mắt chúng tôi là một con người cơ thể yếu đuối nhưng nghị lực vô cùng mạnh mẽ. Suốt bốn năm học cấp II Trường phổ thông cơ sở Xà Phiên, mỗi ngày đi học, Sậm phải bơi xuồng bằng chân đi, về 8 km. Ra đi trời chưa sáng, về nhà khi mặt trời đã tắt. Ba năm liền lớp 6, 7, 8 Sậm đều là học sinh tiên tiến. Ông Phan Thanh Liêm, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số – Kế hoạch hóa gia đình huyện Long Mỹ nhận xét: “Sậm sinh ra trong một gia đình nghèo (mẹ góa con côi) có hoàn cảnh nghiệt ngã đáng thương. Một cô gái vươn lên tìm cho mình cuộc sống, thật đáng trân trọng. Trước đây UBND Huyện Long Mỹ có tặng một chiếc xuồng để em làm phương tiện tự đi học. Thú thật với các anh, lúc đầu giao xuồng cho Sậm, tụi tui cũng lo lắm, lỡ em té thì nguy hiểm tính mạng, nhưng không sao. Đến nay thì em bơi đã khá rành rẽ rồi. Vừa qua, UBND Huyện Long Mỹ chỉ đạo cho sửa lại căn nhà của Sậm vì quá ẩm thấp và hư hỏng”.

Những năm học cấp 3 Sậm khăn gói xa nhà đi ở nội trú và học Trường PTTH Long Mỹ. Nơi đây, ăn uống, vệ sinh cá nhân em tự giải quyết. Gia đình nghèo, đành tự túc nấu ăn bằng đôi chân không lành lặn của mình và món ăn độc nhất của em trong suốt ba năm trời vẫn là món cá khô. Những năm này em nhờ bạn Thạch Đa học cùng lớp đẩy xe cho em vào lớp. Sậm cho biết, suốt mấy năm học, các thầy, cô đã tạo điều kiện giúp đỡ em học tốt như thầy Cường hiệu trưởng, cô Thu Ba dạy môn Sử…

Với giọng buồn buồn, Sậm bộc bạch: “Cơ thể em dị biệt nên trong suốt thời gian em đi học, phòng giáo dục đóng riêng cho em chiếc bàn để ngồi và em luôn ngồi xa các bạn. Trong mười năm học, những lúc thi em tự làm bài bằng sức lực của mình”.

Kết quả kỳ thi tốt nghiệp cấp 3 sậm bị hỏng. Em khóc rất nhiều, bỏ cả ăn uống. Sậm nói trong nước mắt: “Chú ơi! Cháu cũng biết trí nhớ chậm phát triển nên lo học lắm chú à. Lúc thi ngồi bàn riêng, cùng một thời gian thi như nhau, cháu viết bằng mấy ngón chân nên chậm, không đủ thời gian làm bài. Bây giờ cháu làm gì đây? Cháu đuổi gà, con gà không sợ nữa huống là!”.

Nhìn đầu gối bên trái lớn và chai sần do phải cọ xát trong sinh hoạt hằng ngày, chúng tôi vô cùng xúc động và không thể tin nổi khi bà Nguyễn Thị Tám, mẹ của Sậm đem chiếc áo Sậm khâu bằng chân tặng bà cho chúng tôi xem. Bà nói trong xúc động: “Nhìn thân thể con là lòng tôi quặn đau, từ hôm nó lấy kim khâu bằng chân chiếc áo bà ba cho tôi, tôi không biết nói gì, chỉ chảy nước mắt nhìn con”.

Huỳnh Thị Sậm khắc phục bệnh tật, rèn luyện để tự tìm cho mình một tương lai. Một con người giàu nghị lực, tự vượt lên hoàn cảnh rất đáng trân trọng. Chúng tôi cảm thấy chạnh lòng khi nghĩ đến Sậm đang sống trong vùng quê nghèo xa xôi lũ lụt, từng ngày tự vượt qua những thử thách cam go với khát vọng được hòa nhập vào cộng đồng.

Khiếm thị đoạt giải nhạc công

Hội thi Hoa Phượng Đỏ Tỉnh Cần Thơ năm 2002 do Sở VHTT và Sở GDĐT tổ chức từ 23 đến 25/8/2002 gồm 9 huyện, thị, thành phố và Trường dạy trẻ Khuyết Tật tham dự.



Nguyễn Phương Duy bị mù từ nhỏ đã đoạt giải đặc biệt dành cho nhạc công. Duy sử dụng đàn organ, đàn guitar phím lõm một cách điêu luyện làm nức lòng người hăm mộ. Thành tích này Duy cũng đã lập lại tại hội thi Hoa Phượng đỏ năm 2000.
Duy tâm sự: “ Em rất yêu âm nhạc, cuộc sống của em không thể thiếu âm nhạc, em học đàn organ 2 năm tại trường Nguyễn Đình Chiểu và em thường đi biểu diễn ở các nhà văn hoá. Ngoài ra, em nhờ thầy tư nhân dạy em đàn cổ nhạc”.
Nguyễn Duy Phương sinh năm 1976 tại ấp Hoà Long B, thị trấn Kinh Cùng (Phụng Hiệp, Cần Thơ). Em bị ban sởi lúc 3 tuổi, di chứng quái ác làm đôi mắt bị mù. Ba em đi hoạt động cách mạng, mẹ bỏ ra đi lúc em 28 ngày tuổi, em ở với bà nội và cô, chú. Học 12 năm phổ thông dành cho người khiếm thị, hiện em học lớp vậy lý trị liệu tại trường Khuyết Tật Cần Thơ, em là kỷ thuật viên xoa bóp vật lý trị liệu.
Khi hỏi về tương lai, cậu con trai khiếm thị này quyết tâm học lại văn hoá để thi tốt nghiệp cấp 3 và rèn một nghề để ổn định cuộc sống lâu dài.

Thứ Sáu, 12 tháng 10, 2007

Trường Giang Thủy - Vững vàng trên chiếc tó


Anh Trường Giang Thủy bị liệt hai chân, nhưng say mê sáng tác văn học. Trong năm 2003, anh có 14 tác phẩm đoạt giải trong cả nước. Nếu tính cả 10 năm sáng tác, anh đoạt được 59 giải với nhiều thể loại.

Tôi gặp Trường Giang Thủy cùng Võ Thị Mai Xinh trong ngày nhận thêm một giải thưởng trong cuộc thi thơ của Hội Văn nghệ TP Cần Thơ dịp Nguyên tiêu 2004. Niềm vui và hạnh phúc biểu lộ trên gương mặt phúc hậu của anh.

Anh Trường Giang Thủy tên thật là Phạm Hồng Trừ, sinh năm 1953, ở tổ 2, ấp Hòa Long, xã Hòa An (Cao Lãnh, Đồng Tháp).

Đôi mắt hướng về xa xăm, anh kể: “Tôi là con thứ ba trong gia đình 3 chị em, chị Hai mất lúc tôi 5 tuổi nên gia đình xem tôi là con trai lớn”.

Tuổi thơ của anh thiếu sự hồn nhiên vì bệnh viêm đa khớp. Đến năm 17 tuổi, cái tuổi đẹp đẽ và tràn đầy nhựa sống, hai chân anh teo nhỏ, nên phải nghỉ học. Từ đó, anh sống câm lặng, thiếu thốn từ vật chất đến tinh thần. Anh thổ lộ: “May mắn là tôi có người mẹ tuyệt vời, bà luôn cưu mang, đáp ứng những nguyện vọng mà tôi cần như sách báo, truyện, thơ, tài liệu nghiên cứu”.

Thế là anh chống tó để đi lại và cố học lấy một nghề để nuôi thân. đơn giản, anh chọn nghề “hớt tóc”.

Lành nghề, cần mẫn, vui tính nên quán hớt tóc của anh khá đông khách. Khách ngồi ghế xoay, còn anh ngồi ghế cố định để làm đẹp cho khách. Quán hớt tóc trở thành nơi thu lượm mọi tin tức, mọi chuyện buồn vui ở đời và từ đó khơi dậy sáng tác trong anh. Bài ca cổ đầu tay “Những người đi chinh chiến” của anh được ban cổ nhạc Kim Tân ca trên Đài Phát thanh Cần Thơ. Anh Giang Thủy tâm sự: “Khi tôi viết, chỉ mong giải tỏa những bức xúc, nghiệt ngã vì bệnh tật, chứ không nghĩ mình sống bằng nghề viết lách. Thế rồi khi tác phẩm được đăng, được giải thưởng, niềm hạnh phúc, đam mê trào dậy. Từ đó, chuyện viết lách ăn sâu vào máu thịt”.

Qua mười năm anh viết rất nhiều thể loại: cải lương, kịch hài, kịch nói, văn xuôi, thơ ca… Thành công nhất là khi anh viết về mẹ. Bài vọng cổ “Tình mẹ” nói lên những cảm xúc ngậm ngùi khi nhớ đến người mẹ yêu quý.

Tàu cau rơi, tàu cau rơi hồi xế / Mẹ ra ngồi gốc khế vót tàu cau / Con dao xếp bóng mồ hôi tay mẹ / Chạnh nỗi đời không đánh cũng dư đau.

Vở cải lương “Chuyện một góc phố” đoạt giải của Sở Văn hóa Thông tin thành phố Hồ Chí Minh. Vở kịch hài “Bất chấp bất trắc” đoạt giải của Hội Văn nghệ Kiên Giang. Vở kịch nói “Người xa xứ” đoạt giải của Hội Văn nghệ Cần Thơ. Lời mới cho bài ca tài tử “Đêm cuối cùng cho loài hoa sứ” đoạt giải của VTV3. “Mẹ là quê hương” đoạt giải Hội Văn nghệ Bạc Liêu…

Anh viết nhiều thể loại, nhưng tâm đắc nhất là kịch bản sân khấu. Vở “Chuyện ly hôn sau năm hai ngàn” được Đài Truyền hình Đồng Tháp dàn dựng. Vở cải lương “Cơn bão đi qua” được Đoàn cải lương Hương Tràm của Cà Mau dàn dựng.

Tuổi trẻ tật nguyền, sống nhờ nghề hớt tóc nên tình duyên của anh cũng chẳng suôn sẻ gì. Sau này anh gặp được chị Võ Thị Mai Xinh nhân hậu, xinh đẹp và nên vợ nên chồng. Chị đã động viên, chăm sóc anh trong đời thường cũng như trong sáng tác thơ văn.

Nỗi đau lớn trong đời anh là mất đứa con gái 18 tuổi vì căn bệnh trụy tim ngặt nghèo. Nét mặt buồn rầu, anh nói: “Khi con mất, tôi tưởng mình ngã quỵ, may có vợ, bạn bè động viên an ủi. Hiện nay, chúng tôi lo cho đứa con trai duy nhất Phạm Đức Võ Trọng đang học ĐH năm thứ hai, khoa Ngữ văn”. Anh Giang Thủy cho biết trong quý 1-2004 anh sẽ cho ra mắt 24 bài ca cổ chủ đề “Chuyện đời xưa, chuyện đời nay”, trong đó có tác phẩm “Chuyện ngày qua” anh viết về nghịch cảnh của vợ anh từ những ngày mới quen nhau.


Qua mười năm sáng tác, vươn lên từ nhiều khốn khó, anh Trường Giang Thủy để lại trong lòng bạn bè cũng như độc giả ĐBSCL những tình cảm thân thương quý trọng.

Bông hoa miền sông nước


Vạn động viên bơi lội thương tật hạng 6 Trương Thị Cẩm Tú 27 tuổi, năm năm liền dự giải Tiền Paragam và ASIAN Paragam từ 2001 – 2006 đã đem về thành tích đáng trân trọng, đoạt 14 HCV – 4 HCB - 4HCĐ trong những cự ly 200 mét, 100 mét và 50 mét tự do. Cẩm Tú đã đem vinh quang về cho đất nước nói chung và đã đem vinh dự to lớn về cho tỉnh nhà Hậu Giang. Năm 2006 – 2007 Cẩm Tú là cá nhân đoạt huy chương “ điển hình thi đua yêu nước”- Huy chương “Alaxan chiến thắng nỗi đau” – Giải điển hình “ cá nhân tiên tiến” tỉnh Hậu Giang.


Cẩm Tú quê ở xã Tân Long ( Phụng Hiệp – Hậu Giang) vừa cất tiếng khóc chào đời, hai chân tong teo, liệt và mất cảm giác từ bụng xuống chân. Có lẽ Tú là cái gai trong cuộc sống gia đình, thế rồi cha mẹ chia tay, gia đình li tán. Tuổi thơ đến với em là những ngày đơn lạnh, khao khát tình thương. Cuộc sống quạnh hiu với bao đau thương mất mát đè nặng, nhưng không vì thế mà Tú mất đi niềm tin.

Với đôi mắt tinh tường của một em bé chịu nhiều bất hạnh, khổ sở nhìn bà ngoại từng ngày đi kiếm từng chén cơm cho em và từng ngày giam mình trong căn nhà quạnh hiu. Tú nghĩ : Mình phải làm một việc gì đó dù rất nhỏ nhặt để cải thiện cuộc sống cho riêng mình.

Quê hương Tú là một miền quê sông nước, tật nguyền bại liệt như em khó mà tìm kiếm một việc làm hợp với khả năng để sống qua ngày. Năm 12 tuổi, với khuôn mặt ngây thơ, Cẩm Tú ước mơ táo bạo: “Làm sao mình trở thành em bé lái đò đưa khách sang sông”. Để ý nghĩ trên trở thành hiện thực, ngày ngày Tú ra sông tập bơi lội để tự cứu mình lúc nguy hiểm. Mặc kệ đôi chân liệt tong teo, Tú kiên trì tập luyện bằng đôi tay và em đã thành công bằng cách bơi hai tay thuần thục.

Khi biết bơi rồi, Tú chỉ là kẻ trắng tay, tiền đâu mua xuồng để hành nghề đưa khách sang sông. Sau những đêm dài trằn trọc, một buổi sáng mờ sương, bằng hai đòn lết, cô gái khuyết tật đã lết từ cầu Sơn Trắng lên đến Phụng Hiệp, lết quãng đường hơn 10km để gặp các chủ trại xuồng. Khi chủ trại xuồng tiếp xúc cùng Cẩm Tú, trước mắt họ là cô bé tật nguyền nhỏ bé, có gương mặt thật hiền, giọng nói nhỏ dịu dàng, muốn đem sức mình tự vươn lên kiếm sống bằng lao động, bằng mồ hôi ướt đẫm của mình. Thế là chủ trại xuồng đồng ý bán chịu cho em chiếc xuồng năm quăn (1) giá 17000 đồng trả góp trong 1 năm.

Cẩm Tú nghiễm nhiên trở thành cô lái đò đưa khách sang sông, với bao khó Tú tìm được niềm vui, từ đó hằng ngày em có thêm thu nhập, bớt gánh nặng áo cơm cho bà ngoại già yếu. Việc làm này em thấy cuộc đời có ý nghĩa và hạnh phúc.

Trong mười năm đưa khách sang sông, cô gái liệt hai chân có đôi tay rất mạnh và bơi rất giỏi, đó cũng là lợi thế của em về môn bơi lội. Ngoài ra, em không bao giờ tính hơn thiệt với khách sang sông, nên được bà con cảm mến. Với khuôn mặt sạm đen mưa nắng, Cẩm Tú kể:

- Có môt lần, xuồng em tới tuổi rã mục, đắp chỗ này thì nước tràn chỗ khác, bà con thương tình, phụ nhau tát nước chèo qua sông, rồi được mấy chú chằm vá bơi tạm đợi ngày sắm xuồng mới.

Theo dòng chảy của cuộc đời, quê hương Cẩm Tú đổi mới từng ngày, ngôi chợ ngày xưa bây giờ đã khang trang, bến đò đưa rước khách sang sông giờ đây đã có cầu bê tông kiên cố bắc ngang, người xe qua lại tấp nập. Đò ngang vắng khách, Cẩm Tú ngậm ngùi từ giã bến sông với bao kỷ niệm êm đềm lên bờ tìm cuộc mưu sinh mới.

Trên đường cầu thực, Cẩm Tú đã tìm được điểm tựa trong cuộc sống chênh vênh đó là Câu Lạc Bộ Khuyết Tật Cần Thơ và nơi đây Tú tự nỗ lực đứng lên, đem hết sức mình thi thố trong môn bơi lội tại hội thao toàn quốc và quốc tế đoạt nhiều huy chương trước sự thán phục của khán giả.

Đặc biệt trong Asean Para Gams 2 của 11 nước Đông Nam Á, Cẩm Tú đoạt 1 HCV cự li 200 mét, 1 HCV cự li 100 mét tự do và HCB 50 mét tự do trước sự cổ vũ nhiệt tình của khán giả Việt Nam. Cẩm Tú bước lên bục vinh quang với gương mặt tràn đầy niềm vui.

Và cũng từ đó, Tú được bạn bè các nơi gởi thư từ thăm hỏi. Khổ nổi, Tú không thể đọc cũng như viết thư trả lời cho các bè bạn. Không ngại khó khăn, ngày đi làm, đêm về nhờ người quen dạy cái chữ, Tú miệt mài học và tập viết, chỉ trong thời gian ngắn niềm vui của Tú là trả lời thư cho các bạn.

Với ý chí tự lập và vươn lên, Tú đã mạnh dạn từ giã miền quê lên TP Hồ Chí Minh kiếm việc làm và có cơ hội đến trung tâm thể dục thể thao trau dồi luyện tập, nơi đây được HLV chỉ dạy tận tình.

Năm 2006 Cẩm Tú lại đem về những thành tích đáng trân trọng 2HCV + 1 HCĐ. Hiện nay, Cẩm Tú có được việc làm thích hợp với khả năng của mình, đó là phụ kiểm hàng thêu, may tại địa chỉ 205/38 đường Thoại Ngọc Hầu ( Tân Phú – Hồ Chí Minh) và mỗi chiều Cẩm Tú vẫn đều đặn đến luyện tập để dự thi giải thể thao toàn quốc tháng 7/2007 tại Huế và giải quốc tế tháng 12/2007 tại Thái Lan.


(1) bơi 1 năm rồi bỏ

NGƯỜI ĐÀN BÀ MÙ QUẢY GÁNH



Cô bé quê nghèo lớn lên trong vùng lửa đạn, đã từng nếm mùi đói lạnh, từng chân lấm tay bùn nơi ruộng rẫy, nhưng trong lam lũ cô vẫn sống hồn nhiên, chan hoà tình thương như mạch suối ngầm trong trẻo, tinh khôi. Thế rồi, sau cơn bệnh ngặt nghèo di chứng mù loà đã đẩy cuộc đời cô bé về với bóng tối .

Khi đôi mắt không còn thu nhận được ánh sáng, bà con cô bác đều buông tiếng thở dài: “ Đáng thương cho cô bé mười ba tuổi Trương Thị Nhàn”. Không ít người định kiến cho rằng: “ Từ đây đến hết đời con Nhàn là gánh nặng cho gia đình, sẽ chẳng làm nên được cái gì”.
Nhàn buồn muốn chết đi được. Nghiệt ngã, bất hạnh trùm phủ màu đen lên tấm thân bé nhỏ. Nhưng với tính tự lập, cầu tiến, Nhàn suy nghĩ phải tìm cách làm thế nào để mình không là kẻ ăn bám, bèn tìm chị Hai thổ lộ: “Chị thử nghĩ giúp em, người mù như em làm được việc gì ?”. Chị Hai tìm lời giải thích:“ Em đừng bi quan, mặc dù đôi mắt không thấy đường, nhưng em có khối óc, đôi tay kèm với đức tính chịu thương chịu khó thì không việc gì không làm được”. Sau khi chị Hai tận tình chỉ dạy nghề làm men rượu. Nhàn kiên trì, miệt mài học hỏi và không bao lâu trở thành cô thợ làm men nổi tiếng, mem làm ra đặt luôn đặng rượu, sau khi uống cái hậu thơm ngon. Men rượu cô gái mù quê ở Ngan Dừa ( Hồng Dân, Bạc Liêu) vang tận Cà Mau, Sóc Trăng, Hậu Giang, Cần Thơ…
… Một ngày nọ, có chàng thanh niên cũng mù đôi mắt như Nhàn, sống nghề gặt thuê, đốn cây, làm cỏ, hái dừa mướn… đã nhiều năm mà chẳng “đổi đời”, nay chuyển nghề đi buôn vì cho rằng “ phi thương bất phú” bèn dong ruổi đó đây. Định mệnh đưa chàng đến gặp nàng. Em làm men rượu, anh mua men đi bán. Bốn năm gần gũi, khắng khít nẩy sinh tình cảm “men rượu làm say men tình” vậy mà chưa đủ kết nối một mối tình, mặc dù Nhàn đã quen thuộc từng bước đi, giọng nói, tiếng cười, cũng có những giây phút xao xuyến, nhớ thương. Trong lần từ chối lời tỏ tình của chàng trai mù Lưu Xì Rết, Nhàn nhỏ nhẹ : “Anh ạ! Người đàn ông mù còn kiếm được vợ sáng, người đàn bà mù thiệt thòi hơn, em đã mù lấy anh cũng mù, sinh con làm sao nuôi nó nên người, lại gieo thêm gánh nặng cho xã hội”.
Nhàn thường thức khuya dậy sớm, làm lụng cật lực nên một ngày nọ, cô bị bệnh liệt giường. Rết xuống lấy men đi bán. Được tin Nhàn bệnh anh vội vã mua quà đến thăm. Nhàn đưa tay quờ qụang tìm rờ khuôn mặt Rết, bất chợt Nhàn nhận ra hai dòng nước mắt nóng hổi từ đôi mắt thẳm sâu của Rết chảy qua bàn tay thô ráp của mình… Để rồi ...Nhàn quảy gánh… theo Rết về quê ở ấp 5, xã Xà Phiên ( Long Mỹ, Hậu Giang) xây dựng gia đình.
Từ đó Nhàn – Rết bên nhau, cùng chia sẻ gian nan trước những khó khăn về cái ăn, cái ở lại thêm một thai nhi đang tượng hình. Hai người làm đủ mọi việc trong khả năng để kiếm sống và dành dụm khi sinh nở. Ngày ngày, Rết đi mò cá bán, hết mò cá đến bẻ dừa mướn, đan lồng bẫy chim… Riêng Nhàn xay gạo làm men, đặt rượu, trồng cây trái trong vườn, nuôi con gà, con heo…
Mỗi lần thai nhi cựa quậy, Nhàn vừa mừng vừa lo cho sinh linh bé bỏng của mẹ sẽ như thế nào. Nghĩ đến một phần máu huyết của mình sắp sửa chào đời, rồi quên hết mọi gian khổ, tật nguyền lao vào công việc. Khi đứa bé gái đầu lòng ra đời đặt tên là Lưu Thị Hữu Nhân sinh năm 1991, tiếng khóc trẻ thơ làm căn nhà ấm cúng và hạnh phúc hơn. Nhàn thủ thỉ với Rết: “ Anh ơi! Người ta nói con mình dễ thương lắm, đôi mắt tinh anh, mặt mày xinh xắn. Nó bú mạnh lắm nghe anh, em mừng ghê…”. Từ đó, đêm đêm trong căn nhà tối om, người ta nghe âm thanh cối xay bột quay đều: “ Anh ạ! Mình chịu khó nấu rượu rế cơm bằng tấm vất vả hơn gạo nhưng sẽ kiếm được đồng lời nghe anh ”. Rồi đứa con gái thứ hai ra đời tên là Lưu Thị Ai Nhân năm 1993 giống cô chị, thông minh, chăm học. Nhà cửa, chuồng heo, vườn tược sạch sẽ, gọn gàng. Để cuộc sống vươn lên khá hơn thoát cơ cực, đói nghèo. Năm 1998, chị Nhàn nuôi heo nái, hơi thở đều đều của heo là niềm vui của chị, hai con heo nái một năm sinh bốn lứa trên 40 con heo con, bà con ai cũng trầm trồ khen ngợi “ Đàn bà mù như chị Nhàn sao mà giỏi giang quá”.. Khoai thơm chị trồng một năm thu hoạch trên ba trăm ký.
Mỗi viên men, ký thịt heo, củ khoai chị làm ra dường như đổ nhiều mồ hôi hơn người khác. Gian khổ là vậy nhưng chị Nhàn không vì khổ cực mà buồn giận chồng con.
Trong sinh hoạt bình thường có nhiều việc Nhàn thường đem lại ngạc nhiên không kém phần thú vị cho mọi người. Áo quần chồng con rách đem ra để trên đùi, chị xâu chỉ luồn kim trong vòng ba mươi giây. Dùng lưỡi xác định lỗ kim, đầu lưỡi vo cọng chỉ đưa vào lỗ kim, hai ngón tay kéo chỉ lôi ra, chị vá lại những dấu rách. Chị thản nhiên làm không hay biết mọi người nhìn chị với cặp mắt thán phục.
Số tiền bán heo con, gả heo nái, tiền gom trong thu hoạch trồng trọt. Anh chị tu sửa lại căn nhà. Ngày sửa nhà, con gái thấy chị lặng lẽ ngồi sau nhà, hai hàng nước mắt chảy dài, bèn sà vào lòng chị hỏi :“ Sao mẹ khóc, ai làm mẹ buồn hả?”. Chị nói trong thổn thức: “ làm được căn nhà ấm cúng như hôm nay mẹ quá mừng mà chảy nước mắt !…”.
Anh Lê Hoàng Quến, thương binh ¼, mù đôi mắt do chiến tranh, hiện chủ tịch hội Người Mù huyện Long Mỹ, Hạu Giang nhận xét:“ Huyện Long Mỹ chúng tôi có 132 hội viên mù, gia đình anh chị Nhàn là nhân vật điển hình tiêu biểu của huyện, để có một mái ấm như hôm nay, anh chị Nhàn đã vượt qua bao nghiệt ngã, tưởng chừng khó có ai kiên trì làm nổi, con cái được ăn học đàng hoàng, nhiều gia đình bình thường ở đây không bằng anh chị Rết”.
Chị Nhàn đã 50 tuổi, lúc này không còn thức đêm làm men, nấu rượu, xay bột… ngoài việc nuôi heo chị còn lo trông coi bán tiệm tạp hoá thu nhập sống qua ngày. Những đứa con của chị vừa đi học vừa tiếp mẹ mua bán hằng ngày.
Anh Rết lúc này đã 60 tuổi, anh là chi hội trưởng chi hội người mù ấp 5 xã Xà Phiên. Anh thường có mặt trong những đêm vui chơi đờn ca tài tử. Anh luôn hãnh diện có người vợ đảm đang, không mang gánh nặng cho xã hội, đồng thời biết ơn người vợ hiền đã ban tặng cho anh những đứa con ngoan hoà nhập cộng đồng, tạo cho gia đình hạnh phúc và tin yêu cuộc sống.